Định Hướng Thu Hút Và Sử Dụng Vốn Oda Của Việt Nam Giai Đoạn 2006-2010.


Việt Nam đang đổi mới toàn diện cho nên quy hoạch sử dụng đất vĩ mô không ổn định làm cho việc xác định đất lâm nghiệp trở nên khó khăn. Vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong quản lí đất lâm nghiệp, đặc biệt là việc giao đất và khoán rừng bảo vệ. Khoảng 73% diện tích rừng đã có chủ cụ thể nhưng chưa có động lực kinh tế cho chủ rừng tham gia tích cực vào việc bảo vệ, phát triển và sản xuất kinh doanh rừng; Chưa có quy hoạch tổng thể, sự phối hợp chặt chẽ giữa quy hoạch vùng và ngành nên hiệu quả thực thi của các phương án quy hoạch rất thấp. Bên cạnh đó, khoa học kỹ thuật lâm nghiệp chưa phát triển tương xứng với thế mạnh của ngành lâm nghiệp nói chung và từng vùng sinh thái nói riêng, đặc biệt chưa gắn với thực tiễn phát triển lâm nghiệp đáp ứng tình hình và yêu cầu mới. Công nghệ sinh học tạo cây con bằng mô, hom và cải tạo giống cây để có năng suất cao hoặc kỹ thuật canh tác trên đất dốc chưa được áp dụng rộng rãi. Đây cũng là những nguyên nhân làm cho hiệu quả các dự án khi triển khai vào thực tế không đạt được mục tiêu đã đề ra.

Thứ ba, Về phía quản lí Nhà nước:


Các văn bản pháp quy về quản lí đầu tư và xây dựng (Nghị định 52/CP), đấu thầu và xét thầu (Nghị định 88 CP), di dân và giải phóng mặt bằng (Nghị định 22/CP) chậm sửa đổi và bổ sung, làm kéo dài thời gian chuẩn bị và thực hiện các dự án đầu tư bằng nguồn ODA, làm ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân và hiệu quả dự án. Hơn nữa, một số cơ chế chính sách của Nhà nước tuy đã đáp ứng được yêu cầu của quá trình đổi mới trong thời gian qua nhưng chưa đồng bộ và đủ để khai thác các tiềm năng hiện có, chưa tạo động lực cho phát triển lâm nghiệp, chưa khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động nghề rừng.

Thứ tư, Về phía Ban quản lí dự án:


Công tác theo dõi và đánh giá dự án bị buông lỏng. Nhiều cơ quan chủ quản ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lí được các dự án của mình. Kỷ luật báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thực hiện thiếu nghiêm túc. Đội ngũ tuyên


truyền viên chưa thực sự phát huy vai trò trong công tác giám sát cộng đồng ở các địa phương, nhất là những địa bàn vùng sâu, vùng xa

Năng lực một bộ phận không nhỏ cán bộ của các Ban quản lí dự án và chủ dự án ODA yếu kém, bất cập so với yêu cầu tổ chức và quản lí quá trình thực hiện các chương trình, dự án. Nhận thức về tài nguyên rừng, về vai trò và vị trí của rừng và nghề rừng chưa đầy đủ, kể cả cộng đồng dân cư liên quan đến rừng và cả cán bộ trong ngành lâm nghiệp.

Thứ năm, Về phía các nhà tài trợ:


Quy trình và thủ tục ODA của một số nhà tài trợ phức tạp, kém linh hoạt và thiếu minh bạch gây khó khăn cho phía Việt Nam trong quản lí và tổ chức thực hiện dự án. Một số nhà tài trợ can thiệp quá sâu vào quá trình thực hiện dự án, nhất là khâu đấu thầu và xét thầu nhằm bảo vệ lợi ích của các công ty nước mình. Có nhiều trường hợp chuyên gia đồng giám đốc do phía nhà tài trợ cử kém năng lực, thiếu tinh thần hợp tác xây dựng.

Những hạn chế trên đây mang tính chất phổ biến trong đa số các chương trình, dự án thực hiện bằng nguồn vốn ODA của các ngành nói chung và của ngành Lâm nghiệp nói riêng do những đặc thù ngành khi triển khai vào thực tế bởi những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Nếu những khó khăn và hạn chế này được khắc phục thì chắc chắn sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn ODA và thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn hỗ trợ từ bên ngoài góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành lâm nghiệp theo các mục tiêu đã định .


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA TRONG NGÀNH‌

LÂM NGHIỆP VIỆT NAM


I. ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010.

(Trích dự thảo sửa đổi và bổ sung Nghị định 17/2001/NĐ - CP)


Với những kết quả đạt được trong giai đoạn 2001-2005, chủ trương thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam trong thời kỳ 2006 - 2010 là tiếp tục tranh thủ đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, bảo đảm khả năng trả nợ để hỗ trợ thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010. Chính sách thu hút và quản lý ODA trong thời gian tới cần tập trung cải thiện mạnh mẽ tình hình giải ngân các chương trình và dự án ODA đã ký kết, sớm đưa các công trình vào khai thác và sử dụng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ODA. Đồng thời, xây dựng các chương trình, dự án ODA gối đầu cho giai đoạn sau năm 2010, đặt trọng tâm vào chất lượng và hiệu quả.

Cơ cấu định hướng thu hút và sử dụng ODA theo ngành, lĩnh vực giai đoạn 2006

- 2010 là: i) Nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản kết hợp phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói, giảm nghèo chiếm 21%; ii) Năng lượng và công nghiệp chiếm 15%; iii) Giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và đô thị chiếm 33% và iv) Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác (bao gồm xây dựng thể chế, tăng cường năng lực…) chiếm 41%. Tổng vốn ODA ký kết cho cả giai đoạn dự kiến từ 16,0 - 18,75 tỷ USD.


II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH LÂM NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2006 – 2020‌

(Trích Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2020 , ban hành kèm theo Quuyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ)

1. Mục tiêu chung


Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu ha đất được quy hoạch cho lâm nghiệp; nâng tỷ lệ đất có rừng lên 42 - 43% vào năm 2010 và 47% vào năm 2020; đảm bảo có sự tham gia rộng rãi hơn của các thành phần kinh tế và tổ chức xã hội vào các hoạt động lâm nghiệp nhằm đóng góp ngày càng tăng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, cung cấp các dịch vụ môi trường, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân nông thôn miền núi và góp phần giữ vững an ninh quốc phòng.

1.1. Về kinh tế


Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 3 loại rừng. Quản lý tốt rừng tự nhiên hiện có, gia tăng diện tích và năng suất rừng trồng, tăng cường các hoạt động nông lâm kết hợp và sử dụng có hiệu quả các diện tích đất trống đồi trọc phù hợp cho phát triển lâm nghiệp. Sản xuất, chế biến gỗ và lâm sản ngoài gỗ có tính cạnh tranh và bền vững để đáp ứng về cơ bản nhu cầu nội địa và tham gia xuất khẩu các sản phẩm gỗ và lâm sản khác; cụ thể là:

Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp (bao gồm cả công nghiệp chế biến lâm sản và các dịch vụ môi trường) từ 4 đến 5%/năm, phấn đấu đến năm 2020, GDP của ngành lâm nghiệp đạt khoảng 2 - 3% GDP quốc gia;

Quản lý bền vững và có hiệu quả 8,4 triệu ha rừng sản xuất, trong đó 4,15 triệu ha rừng trồng, bao gồm rừng nguyên liệu công nghiệp tập trung, lâm sản ngoài gỗ.... và 3,63 triệu ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên. Diện tích phục hồi rừng tự nhiên và nông lâm kết hợp là 0,62 triệu ha. Phấn đấu ít nhất có được 30% diện tích rừng sản


xuất có chứng chỉ rừng (là diện tích được đánh giá và cấp giấy xác nhận đạt tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững);

Quy hoạch hợp lý, quản lý và sử dụng có hiệu quả hệ thống rừng phòng hộ khoảng 5,68 triệu ha và rừng đặc dụng 2,16 triệu ha, trong đó:

Trồng rừng mới 1,0 triệu ha đến năm 2010 và 1,5 triệu ha cho giai đoạn sau. Trồng lại rừng sau khai thác 0,3 triệu ha/năm;

Khoanh nuôi tái sinh rừng 0,8 triệu ha;

Trồng cây phân tán: 200 triệu cây/năm;

Sản lượng gỗ khai thác trong nước 20 - 24 triệu m3/năm (trong đó có 10 triệu m3 gỗ lớn), đáp ứng về cơ bản nhu cầu nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến lâm sản, bột giấy và xuất khẩu;

Khai thác củi dùng cho khu vực nông thôn duy trì ở mức 25 - 26 triệu m3/năm;

Xuất khẩu lâm sản đạt trên 7,8 tỷ USD (bao gồm 7 tỷ USD sản phẩm gỗ và 0,8 tỷ USD sản phẩm lâm sản ngoài gỗ);

Nâng cao nguồn thu từ các giá trị môi trường rừng thông qua cơ chế phát triển sạch (CDM), du lịch sinh thái, phòng hộ chống xói mòn, bảo vệ nguồn nước... đạt 2 tỷ USD vào năm 2020.

1.2. Về xã hội:


Cải thiện sinh kế của người làm nghề rừng thông qua xã hội hoá và đa dạng hoá các hoạt động lâm nghiệp; tạo công ăn việc làm, nâng cao nhận thức, năng lực và mức sống của người dân; đặc biệt chú ý đồng bào các dân tộc ít người, các hộ nghèo và phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa để từng bước tạo cho người dân làm nghề rừng có thể sống được bằng nghề rừng, góp phần xoá đói, giảm nghèo và giữ vững an ninh quốc phòng; các nhiệm vụ cụ thể là:


Tạo thêm 2 triệu việc làm mới trong lâm nghiệp (bao gồm cả khu vực chế biến gỗ, lâm sản ngoài gỗ và các làng nghề thủ công mỹ nghệ).

Tăng thu nhập, góp phần xoá đói và giảm 70% số hộ nghèo trong các vùng lâm nghiệp trọng điểm;

Hoàn thành giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp cho các tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng trước năm 2010;

Nâng số lao động lâm nghiệp được đào tạo nghề lên 50%, chú trọng các hộ dân tộc ít người, hộ nghèo và phụ nữ ở các vùng sâu, vùng xa.

1.3. Về môi trường:


Bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng phòng hộ của ngành lâm nghiệp là: Phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng hộ môi trường đô thị, giảm nhẹ thiên tai, chống xói mòn, giữ nguồn nước, bảo vệ môi trường sống; tạo nguồn thu cho ngành lâm nghiệp từ các dịch vụ môi trường (phí môi trường, thị trường khí thải CO2, du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, nghỉ dưỡng...) để đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Cụ thể:

Nâng độ che phủ rừng lên 42 - 43 % vào năm 2010 và lên 47% vào năm 2020;

Đến năm 2010 trồng 0,25 triệu ha rừng phòng hộ và rừng đặc dụng;

Giảm thiểu đến mức thấp nhất các vụ vi phạm vào rừng. Hạn chế canh tác nương rẫy trên đất lâm nghiệp.


Bảng 5: Định hướng quy hoạch diện tích rừng và đất lâm nghiệp giai đoạn 2010 - 2020

(Đơn vị: Triệu ha)



Loại rừng và đất đai

Hiện trạng năm 2005 *

Quy hoạch


Năm 2010


Năm 2020

Tổng diện tích đất lâm nghiệp

19,02

16,24

16,24

- Đất có rừng

12,61

14,07

15,57

- Đất chưa sử dụng

6,41



- Đất trồng lại rừng sau khai thác


0,30

-

- Đất trống trong rừng


0,05

0,05

- Đất phục hồi rừng và NLKH


1,82

0,62

1. Rừng phòng hộ

9,47

5,68

5,68

- Đất có rừng

6,19

5,67

5,67

- Đất chưa sử dụng

3,38



- Đất trống trong rừng


0,01

0,01

2. Rừng đặc dụng

2,32

2,16

2,16

- Đất có rừng

1,92

2,12

2,12

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA trong ngành lâm nghiệp ở Việt Nam - 9


- Đất chưa sử dụng

0,40



- Đất trống trong rừng


0,04

0,04

3. Rừng sản xuất

7,10

8,40

8.40

- Đất có rừng

4,48

6,28

7,78

+ Rừng tự nhiên

3,10

3,63

3,63

+ Rừng trồng

1,38

2,65

4,15

- Đất chưa sử dụng

2,62

-

-

- Đất trồng lại rừng sau khai thác


0,30

0

- Đất phục hồi lại rừng và NLKH


1,82

0,62

Tỷ lệ đất có rừng

37%

42,6%

47%

(nguồn: Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007)


2. Các chương trình phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020


2.1. Chương trình quản lý và phát triển rừng bền vững


a. Mục tiêu


Quản lý, phát triển và sử dụng rừng bền vững, có hiệu quả nhằm đáp ứng về cơ bản nhu cầu lâm sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế quốc dân, ổn định xã hội, đặc biệt tại khu vực các dân tộc ít người và miền núi, đồng thời bảo đảm vai trò phòng hộ, bảo tồn đa dạng sinh học và cung cấp các dịch vụ môi trường, góp phần phát triển bền vững quốc gia.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 07/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí