Những Giải Pháp Hạn Chế Ảnh Hưởng Tiêu Cực Của Cuộc Khủng Hoảng


a. Khu vực thị trường Châu Á và Châu Đại Dương: Dự báo xuất khẩu

vào các thị trường chính như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan sẽ giảm so với năm 2008, đặc biệt là thị trường ASEAN do xuất khẩu xăng dầu sang thị trường này giảm. Kế hoạch năm 2009 xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Châu Á đạt 31,6 tỷ USD, tăng 13 % so với năm 2008; Khu vực thị trường Châu Đại Dương dự kiến giảm còn bằng 91,8% so với năm 2008 đạt 3,9 tỷ USD cũng bởi nguyên nhân trên.

Việc thực hiện đầy đủ các cam kết theo CEPT/AFTA đã và đang tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước này, song do kim ngạch xuất khẩu vào ASEAN tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng bình quân, trong khi kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN tăng tương đối nhanh nên nhập siêu từ khu vực này tiếp tục tăng

b. Khu vực thị trường Châu Âu: Năm 2009, xuất khẩu những hàng hóa chủ yếu vào thị trường EU dự báo sẽ giảm như dệt may, giầy dép vì nhu cầu tiêu dùng giảm do khủng hoảng kinh tế các mặt hàng có khả năng tăng là sản phẩm nhựa, hàng điện tử, hàng thủy sản. Tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 13,3 tỷ USD, tăng 15%.

c. Khu vực thị trường Châu Mỹ: Do cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ nên tăng trưởng nhập khẩu của Hoa Kỳ năm 2009 dự báo sẽ giảm (trừ những nhóm hàng nhiên liệu và một số nông sản có thể vẫn tăng do vẫn có nhu cầu tiêu dùng và tăng giá) nhất là đối với các nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam như may mặc, giầy dép, vali, túi xách, đồ gỗ, đồ điện tử, cáp điện, sản phẩm nhựa, hạt điều, cà phê. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt 14,6 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2008, trong đó Hoa Kỳ đạt 12,7 tỷ USD, tăng 10%. Các mặt hàng như sản phẩm gỗ, dệt may, giầy dép, cà phê, thủy sản vẫn là những mặt hàng đóng góp lớn vào tăng trưởng.

d. Khu vực thị trường Châu Phi: Dự báo tình hình phát triển kinh tế tại khu vực này có thuận lợi ở một số thị trường và không có đột biến trong chính sách thương mại, đòi hỏi ở thị trường này không quá khắt khe, vì vậy đây là thị trường rất tiềm năng cho Việt Nam, năm 2009 phấn đấu xuất khẩu đạt 2,3 tỷ USD, tăng 89% so với năm 2008.

3.1.2.3. Nhập khẩu

Dự kiến nhập khẩu năm 2009 sẽ không tăng đột biến năm 2008 vì:

-Tiếp tục thực hiện các biện pháp của Chính phủ đã ban hành nhằm kiềm chế lạm phát, thực hiện tiết kiệm trong chi phí công, cắt giảm đầu tư các công trình

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.


không hiệu quả hoặc chưa cần thiết, xử lý linh hoạt việc tăng thuế nhập khẩu, nộp thuế trước khi thông quan, quản lý nhập khẩu bằng giấy phép tự động...

Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính thế giới tới hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam - 11

- Giá nhiều loại nguyên nhiên vật liệu đầu vào giảm mạnh 30-50% so với năm 2008 như sắt thép, phôi thép, phân bón, xăng dầu làm cho trị giá nhập khẩu giảm nhiều mặc dù lượng có thể tăng nhẹ so với năm 2008 (chỉ tính riêng 4 mặt hàng này ước giảm do giá khoảng 6 tỷ USD).

- Lượng xăng dầu nhập khẩu giảm do nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động. Lượng nhập khẩu năm 2009 ước khoảng 11 triệu tấn với kim ngạch khoảng 6 tỷ USD (giá bình quân 545 USD/tấn), giảm trên 5 tỷ USD so với năm 2008.

- Nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu giảm do khó khăn về thị trường, vốn, lãi suất… Doanh nghiệp và người dân cũng sẽ tiết kiệm hơn trong sản xuất, tiêu dùng.

- Việc nhập khẩu với số lượng lớn để đầu cơ giá lên như trong năm 2008 đối với mặt hàng sắt thép, phôi thép nhiều khả năng không còn. Ngoài ra, việc nhập khẩu vàng tiếp tục được kiểm soát và hạn chế.

Với những biện pháp và tình hình như đã phân tích ở trên, dự kiến kim ngạch nhập khẩu năm 2009, ở mức 90,3 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2008. Như vậy, nhập siêu sẽ ở mức khoảng 19,2 tỷ USD bằng 27% xuất khẩu KNXK.

3.2. Những giải pháp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng

Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã luôn bám sát diễn biến tình hình kinh tế, nghiêm túc xem xét các vấn đề kinh tế nổi lên và đưa ra các quyết sách nhằm hạn chế những tác động tiêu cực, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển.

Trước tình hình lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2008, Chính phủ đã đề ra và tập trung thực hiện 8 nhóm giải pháp, và điều chỉnh, bổ sung khi tình hình đã thay đổi nên đã kiềm chế lạm phát, giảm rõ rệt mức nhập siêu của những tháng cuối năm. Từ khi nhận thức được tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và suy thoái kinh tế toàn cầu đối với nước ta, Chính phủ đã đề ra gói giải pháp mới để bảo đảm tình hình kinh tế, giữ mức tăng trưởng hợp lý, đồng thời chuẩn bị đối phó với tình trạng có thể tồi tệ hơn do kinh tế thế giới suy thoái trong năm 2009. Gói giải pháp này bao gồm 5 nhóm giải pháp chính sau đây:

- Thứ nhất, thúc đẩy sản xuất – kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu. Chính phủ có chính sách tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh, cho


những người trực tiếp sản xuất, nhất là nông dân và người nghèo về chính sách thuế, vay vốn ngân hàng, hoãn nợ, giãn nợ ngân hàng, hỗ trợ về cây, con giống… miễn là không vi phạm các quy định của WTO.

- Thứ hai, đẩy mạnh kich cầu đầu tư và tiêu dùng. Chính phủ khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư vào các lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, điện, xi măng…Chính phủ cũng phát hành thêm trái phiếu Chính phủ, linh động cơ chế thầu, chỉ định thầu đối với các công trình ở vùng sâu, vùng xa, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho người nghèo, cho công nhân để giải quyết vấn đề tồn đọng của hàng hóa, vật liệu xây dựng.

- Thứ ba, thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ linh hoạt, hiệu quả nhằm thúc đẩy sản xuất – kinh doanh, xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội. Chính phủ giữ lãi suất, thuế ở mức phù hợp.

- Thứ tư, tiếp tục thực hiện chính sách an sinh xã hội, trong đó có đề án giảm nghèo ở 61 huyện nghèo, bảo hiểm thất nghiệp. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo không để nhân dân thiếu đói và chỉ đạo Bộ Tài chính mua trên 150.000 tấn gạo, nhu yếu phẩm dự trữ.

- Thứ năm, quyết liệt, linh hoạt, kịp thời và hiệu quả trong tổ chức chỉ đạo, điều hành cho phù hợp với tình hình mới. Trong đó, tập trung chủ động về công tác dự báo, phân tích, đặt nhiệm vụ dự báo sát với tình hình thế giới là việc làm thường xuyên, liên tục của các ngành, các cấp, các tổ chức nghiên cứu khoa học….

- Lường trước những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngày 11/12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, yêu cầu các Bộ, các địa phương tổ chức triển khai thực hiện ngay. Cụ thể là :

3.2.1 Các giải pháp đối với lĩnh vực ngân hàng:

- NHNN tạo điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, như tiếp tục xem xét giảm dự trữ bắt buộc, điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh.

- Hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận quy định tại Nghị quyết số 23/2008/QH12 của Quốc hội.


- Các NHTM thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ và áp dụng các giải pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật đối với các hộ nông dân bị thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.

- Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả, điều chỉnh linh hoạt tỷ giá ngoại tệ theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu điều hành cán cân thanh toán quốc tế theo hướng không để thâm hụt.

- NHNN chỉ đạo các NHTM xem xét điều chỉnh áp dụng lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống phù hợp theo mức lãi suất hiện hành, không phạt do quá hạn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa khó khăn. Chính phủ giao Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các doanh nghiệp này tiếp cận nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm.

3.2.2 Các biện pháp nhằm giảm, giãn thuế:

- Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý IV/2008 và số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

- Giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 9 tháng đối với số thuế phải nộp năm 2009 của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (70% số thuế còn lại sau khi giảm) và của các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, gia công, chế biến nông, lâm thủy sản, dệt may , da giày, linh kiện điện tử.

- Tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán.

- Điều chỉnh thuế xuất khẩu đối với một số loại tài nguyên, khoảng sản và sửa đổi thuế suất thuế tài nguyên theo hướng hạn chế xuất khẩu, bảo đảm nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước.

- Điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là nguyên liệ đầu vào của sản xuất, trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng không được đáp ứng đủ nhu cầu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh. Điều chỉnh tăng thuế trong khuôn khổ cam kết WTO, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất trong nước, kiềm chế nhập siêu.

- Giãn thời gian ân hạn nộp thuế đối với một số ngành hàng phù hợp với chu


kỳ sản xuất và tiêu thụ (đóng tàu, sản xuất cơ khí…) Thực hiện tốt chính sách về ân hạn thời hạn nộp thuế nhập khẩu (275 ngày) đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu.

- Cải cách thủ tục XNK, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, đơn giản thủ tục hoàn thuế, quyết toán thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu.

- Quy định rõ và phù hợp tỷ lệ phế liệu, phế phẩm thu được trong quá trình nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu không phải chịu thuế nhập khẩu.

- Trong tháng 12/2008, Bộ trưởng Bộ tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Luật thuế Thu nhập cá nhân theo hướng hỗ trợ khó khăn cho một số đối tượng nộp thuế.

3.2.3 Các giải pháp kích cầu đầu tư.

Kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng là nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 30, trong đó Chính phủ xác định 8 giải pháp mà các bộ liên quan phải triển khai. Cụ thể:

- Tiếp tục rà soát lại toàn bộ các văn bản pháp luật hiện hành về đầu tư, xây dựng để sửa đổi ngay những bất cập làm ảnh hưởng đến tiến độ các dự án đầu tư, khẩn trương xây dựng luật sửa đổi, bổ sung các luật về đầu tư, xây dựng.

- Đối với các công trình, các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cho phép tiếp tục giải ngân số vốn còn lại của năm 2008 đến hết tháng 6/2009. Đối với các dự án,các công trình quan trọng, cấp bách nhưng chưa bố trí được nguồn vốn, trong đó có dự án tái định cư các khu kinh tế, các bộ và địa phương chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương hoàn thành các thủ tục đầu tư và chủ động làm việc với Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính để xử lý nguồn vốn, kể cả việc tạm ứng ngân sách nhà nước để thực hiện.

- Tạm hoãn thu hồi các khoản vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế hoạch năm 2009, trừ các khoản đã tạm ứng năm 2009 để hoàn thành kế hoạch năm 2008.

- Đối với các dự án , các công trình sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ, cho phép điều chỉnh tổng mức đầu tư đối với các dự án đã có trong danh mục được Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ giao, trên cơ sở đó thực hiện việc điều hòa vốn giữa các dự án, công trình và được thanh toán theo đúng tiến độ. Đồng thời, cho phép tiếp tục giải ngân nguồn vốn trái phiếu Chính phủ còn lại của năm 2008 trong năm 2009, bổ sung các dự án cấp bách khác trong các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục để triển khai thực hiện. Tạm ứng từ nguồn trái phiếu


Chính phủ khoảng 1.500 tỷ đồng để đầu tư, xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi, nâng cao năng lực phòng chống lụt bão vùng đồng bằng sông Hồng…

- Tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn FDI và ODA, nhất là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao, có giá trị xuất khẩu lớn, các dự án giải quyết việc làm, phấn đấu năm 2009 thực hiện giải ngân các nguồn vốn trên không thấp hơn mức thực hiện trong năm 2008.

- Cho phép cáp quyết định đầu tư được chỉ định thầu các dự án có mức vốn tối đa không quá 5 tỷ đồng/ dự án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng thời chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.

- Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư các dự án các công trình có quy mô lớn được tạo điều kiện tối đa về đất đai, tiếp cận nguồn vốn, giải phóng mặt bằng, lãi suất… Các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước chủ động tham gia các dự án, các công trình đầu tư hạ tầng quan trọng như cảng biển, điện , đường cao tốc, thủy lợi, trường học, cơ sở y tế… để góp phần đẩy nhanh tiến độ và kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của đất nước.

- Xây dựng quỹ nhà ở xã hội giai đoạn 2009 – 2015, ban hành cơ chế phù hợp để đảm bảo khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp.

Nhằm tạo nguồn vốn cho kích cầu đầu tư, cuối tháng 12/2008 Chính phủ đã thông qua phương án sử dụng 17.000 tỷ đồng cho việc này.

3.2.4 Các giải pháp kích cầu tiêu dùng:

- Tiếp tục điều hành giá theo cơ chế thị trường đối với các mặt hàng điện, than, nước sạch, cước vận chuyển xe buýt…

- Phát triển hệ thống phân phối các mặt hàng thiết yếu, tập trung vào các mặt hàng lương thực, xăng dầu, phân bón, sắt thép, xi măng và thuốc chữa bệnh, chống gian lận, đầu cơ, gây mất ổn định thị trường.

- Tăng cường quản lý thị trường , giá cả, chất lượng hàng hóa…., xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là kinh doanh trái phép, trốn thuế, liên kết độc quyền…

- Khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức các đợt hạ giá bán hàng để kích thích tiêu dùng.

3.2.5 Các biện pháp bảo đảm an sinh xã hội:

- Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp các cơ quan liên quan và các địa phương bị thiệt hại do lũ lụt triển khai ngay các biện pháp hỗ trợ lương thực, chi phí


sửa chữa nhà ở, phòng trừ dịch bệnh, hỗ trỡ giống cây trồng, vật nuôi, bảo đảm không để tình trạng người dân bị đói và nhanh chóng khôi phục sản xuất sau lũ lụt.

Các Bộ : Lao động – Thương binh và Xã hội, Kế hoạch và Đầu tư, tài chính, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ủy ban Dân tộc khẩn trương rà soát, xây dựng để đưa vào áp dụng ngay từ những tháng đầu năm 2009 các chính sách hỗ trỡ đầu tư nhằm thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững cho 61 huyện nghèo, hướng dẫn các địa phương điều tra, khảo sát, sơ kết chuẩn nghèo hiện hành và các chính sách đang áp dụng cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo để cân đối nguồn lực hỗ trợ và dự kiến các phương án điều chỉnh chuẩn nghèo.

- Thực hiện các biện pháp thúc đẩy đầu tư xây dựng nhà cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở khu vực công nghiệp tập trung, nhà ở cho học sinh, sinh viên, hỗ trợ thu nhập cho các đối tượng chính sách, người lao động có thu nhập thấp, người bị thiệt hại do thiên tai bão, lũ gây ra. Chỉ đạo các địa phương tổ chức theo dõi, phối hợp kịp thời giữa các bên để giải quyết vướng mắc về quan hệ lao động trong các khu công nghiệp, hạn chế tranh chấp lao động, đình công.

- Tổ chức triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội.Thực hiện tăng thêm dự trữ quốc gia về lương thực ( khoảng trên

150.000 tấn quy gạo) để chủ động cứu trợ cho người dân ở các vùng bị lũ lụt, không để xảy ra tình trạng thiếu đói ở vùng bị thiên tai.

- Tiếp tục thực hiện trợ cấp khó khăn cho người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, thu nhập thấp. Tăng cường chỉ đạo thực hiện các chương trình giảm nghèo, bố trí đủ vốn cho chương trình tín dụng đối với hộ nghèo, học sinh, sinh viên nghèo và các đối tượng chính sách khác thông qua hoạt động của Ngân sách Chính sách xã hội, các chính sách hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu sổ nghèo, đời sống khó khăn. Các Bộ, các địa phương huy động các nguồn lực xã hội và bố trí tăng ngân sách để phát triển mạnh các hình thức dạy nghề lao động nông thôn, nhất là lao động thuộc hộ nghèo góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo.

Thủ tướng yêu cầu các địa phương tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai tổ chức thực hiện đồng bộ các chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp và cơ chế chính sách đã ban hành trên địa bàn tỉnh, thành phố, nhất là các giải pháp để phát triển sản xuất, kinh doanh, ngăn chặn suy giảm kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội (như hỗ trợ lãi suất, miễn giảm thuế, đầu tư từ ngân sách ,bảo lãnh cho


doanh nghiệp vay vốn, hỗ trợ người nghèo….) đồng thời, kiến nghị kịp thời những vướng mắc khó khăn để chính phủ khẩn trương điều chỉnh bổ sung chính sách, giải pháp cho phù hợp nhằm phấn đấu bảo đảm thực hiện sáng tạo và có hiệu quả cao các nhiệm vụ, giải pháp mà Đảng, Nhà nước để đề ra, hạn chế tối đa và xử lý nghiêm các biểu hiện tiêu cực, giữ vững ổn định và phát triển hợp lý, bền vững đất nước.

Một số kiến nghị về giải pháp cho năm 2009 và 2010.

a. Một số chủ trương và định hướng giải pháp lớn.

Trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay, điều quan trọng là không chỉ cần chủ động ứng phó với những tác hại của khủng hoảng, mà phải biết tranh thủ tình thế các nước ngoài khó khăn để vươn lên khắc phục sự tụt hậu của chúng ta. Cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới kỹ thuật, liên kết, hợp lý hóa sản xuất kinh doanh, hỗ trợ để không phá sản hàng loạt. Cần nhanh chóng triển khai chính sách kich cầu trong nước, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển hướng thị trường xuất khẩu, ngăn chặn có hiệu quả hàng tiêu dùng giá rẻ từ bên ngoài tràn vào vì nhập khẩu đang có xu hướng tăng trở lại. Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tranh thủ nhập khẩu công nghệ cao để đổi mới công nghệ, đồng thời phải chú ý thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội phù hợp với từng loại đối tượng, không để tình trạng thất nghiệp tràn lan, thiếu đói xảy ra có thể dẫn đến những vấn đề xã hội phức tạp.

Một điều hết sức quan trọng là phải xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, có tính linh hoạt cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải đánh giá đúng vai trò của mình trong phân công lao động quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu, để từ đó có chiến lược sản phẩm quốc gia và từng vùng, miền phù hợp, linh hoạt nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, thâm nhập thị trường thế giới, chủ động khâu tiêu thụ, xuất khẩu, khắc phục tốt tình trạng sản xuất kinh doanh tự phát, manh mún, chạy theo phong trào… Mặt khác, khủng hoảng cũng cho thấy cần phải chủ động bảo đảm tốt các cân đối lớn về tài chính – tiền tệ, nguyên vật liệu, đặc biệt là an ninh lương thực và năng lượng quốc gia… để nền kinh tế có khả năng chịu đựng, giữ được sự phát triển tương đối ổn định, không rơi vào khủng hoảng.

Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới hệ thống thể chế, câ thể chế hành chính và thể chế kinh tế, hướng tới hệ thống thể chế hiện đại, có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển đất nước.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 07/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí