Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thực phẩm tại Xí nghiệp khai thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp - 2


Sơ đồ 1.1: Mô hình tổ chức mua sắm và quản lý vật tư


2.1.1. Xác định nhu cầu

Mỗi loại vật tư đều có những đặc tính cơ, lý, hoá học và trạng thái khác nhau, có nhu cầu tiêu dùng cho các đối tượng khác nhau. Doanh nghiệp thực phẩm phải tính toán, dựa vào các chỉ tiêu để xác định được nhu cầu cần tiêu dùng trong kỳ kinh doanh, số lượng nguyên nhiên, vật liệu loại gì chất lượng ra sao để sản xuất thực phẩm. Đồng thời doanh nghiệp phải nghiên cứu xác định khả năng của nguồn hàng, để có thể khai thác đặt hàng và thu mua đáp ứng cho nhu cầu của sản xuất, nguồn hàng có thể mua lại của các nhà kinh doanh khác hay tới tận nơi trồng trọt chăn nuôi để thu mua nguyên vật liệu.

Nhu cầu vật tư cho sản xuất được xác định bằng 4 phương pháp:

a. Phương pháp trực tiếp ( dựa vào mức tiêu dùng vật tư và khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ)

- Tính theo mức sản phẩm:


N sx

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.


n

Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thực phẩm tại Xí nghiệp khai thác và cung ứng thực phẩm tổng hợp - 2

QSP .mSP

1

Nsx: Nhu cầu vật tư để sản xuất sản phẩm trong kỳ QSP: Số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch mSP: Mức sử dụng vật tư cho đơn vị sản phẩm

n: Số sản phẩm sản xuất (khối lượng công việc)

- Tính theo mức chi tiết sản phẩm


Nct


n

Qct .mct

1

Nct: Nhu cầu vật tư để sản xuất các chi tiết sản phẩm trong kỳ

Qct: Số lượng chi tiết sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch mct: Mức sử dụng vật tư cho một đơn vị chi tiết sản phẩm n: Số chi tiết sản xuất

- Tính theo mức của sản xuất tương tự Nsx = Qsp.mtt. Kđ

Nsx: Nhu cầu vật tư tiêu dùng để sản xuất sản phẩm trong kỳ Qsp: Số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch

mtt: Mức tiêu dùng vật tư của sản phẩm tương tự Kđ: hệ số điều chỉnh giữa 2 loại sản phẩm

- Tính theo mức của sản phẩm đại diện

Nsx = Qsp. mđd

Nsx: Nhu cầu vật tư tiêu dùng để sản xuất sản phẩm trong kỳ Qsp: Số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch

đd bq

m : mức sử dụng vật tư của sản phẩm đại diện m

msp .K sp

K sp

(Với Ksp: tỷ trọng từng cỡ loại trong tổng khối lượng sản xuất, %)

b. Phương pháp tính dựa trên cơ sở số liệu về thành phần chế tạo sản phẩm

Nhiều loại sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, sản phẩm đúc, sản phẩm bê tông… được sản xuất từ nhiều loại nguyên, vật liệu khác nhau, thì nhu cầu được xác định theo 3 bước.

Bước 1: Xác định nhu cầu vật tư để thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm (NVT).

n

NVT = Q.H

1


Q: Khối lượng sản phẩm sản xuất theo kế hoạch tiêu thụ trong kỳ H: Trọng lượng tinh của sản phẩm (kg, tấn, m2)

n: Số lượng sản phẩm sản xuất.

Bước 2: Xác định nhu cầu vật tư cần thiết cho sản xuất có tính tổn thất trong quá trình sử dụng.

N sx

NVT

Kt

(Kt: hệ số thu thành phẩm)

Bước 3: Xác định nhu cầu về từng loại vật tư hàng hoá Nx = Nsx.h

Nx: Nhu cầu của từng loại vật tư, hàng hoá h: Tỷ trọng của từng loại so với tổng số

c. Phương pháp tính nhu cầu dựa trên cơ sở thời hạn sử dụng


N sx

Pvt t

Pvt: nhu cầu hàng hoá cần có cho sử dụng t: Thời hạn sử dụng

d. Phương pháp tính theo hệ số biến động

Nsx = Nbc. Tsx . Htk

Nbc: Số lượng vật tư sử dụng trong năm báo cáo Tsx: Nhịp độ phát triển sản xuất kỳ kế hoạch

Htk: hệ số tiết kiệm vật tư năm kế hoạch so với năm báo cáo

2.1.2. Nghiên cứu thị trường đầu vào

Đây là quá trình nghiên cứu, phân tích các thông tin về thị trường đầu vào nhằm tìm kiếm thị trường đáp ứng tốt nhất nhu cầu vật tư cho sản xuất của doanh nghiệp. Vì thị trường vật tư là thị trường yếu tố đầu vào của sản xuất nên mục tiêu cơ bản nhất của nghiên cứu thị trường vật tư là phải trả lời được các câu hỏi: Trên cơ sở phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì nên sử dụng loại vật tư nào sẽ đem lại hiệu quả cao nhất? Chất lượng, số lượng loại vật tư đó như thế nào? Mua sắm vật tư ở đâu? Khi nào? Mức giá vật tư trên thị trường là bao nhiêu? Phương thức mua bán và giao nhận như thế nào?…

Để nghiên cứu thị trường thường phải trải qua 3 bước cơ bản: thu thập thông tin, xử lý thông tin và ra quyết định. Cùng với việc nghiên cứu thị trường thì công tác dự báo thị trường vật tư đối với doanh nghiệp cũng có một vị trí quan trọng. Việc nghiên cứu và dự báo thị trường phải tiến hành đồng thời với cung, cầu, giá cả… từ đó doanh nghiệp sẽ xây dựng được chiến lược kinh doanh phù hợp.

2.1.3. Lập kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp

Kế hoạch mua sắm vật tư ( đầu vào cho sản xuất kinh doanh thực phẩm) là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất-kỹ thuật-tài chính của doanh nghiệp và có mối quan hệ mật thiết với các kế hoạch khác như kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế hoạch xây dựng cơ bản. Kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp là các bản tính toán nhu cầu cho sản xuât hàng thực phẩm của doanh nghiệp và nguồn hàng rất phức tạp nhưng có tính cụ thể và nghiệp vụ cao. Nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch là bảo đảm vật tư tốt nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng thực phẩm, nó phản ánh được toàn bộ nhu cầu vật tư của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch như nhu cầu vật tư cho sản xuất, cho sửa chữa, dự trữ, cho xây dựng cơ bản… Đồng thời nó còn phản ánh được các nguồn vật tư và cách tạo nguồn của doanh nghiệp gồm nguồn từ hàng tồn kho đầu kỳ, nguồn động viên tiềm lực nội bộ doanh nghiệp, nguồn mua trên thị trường.


2.1.4. Tổ chức mua sắm vật tư

Trên cơ sở của kế hoạch mua sắm vật tư và kết quả nghiên cứu thị trường doanh nghiệp lên đơn hàng vật tư và tổ chức thực hiện việc đảm bảo vật tư cho sản xuất. Lên đơn hàng là quá trình cụ thể hoá nhu cầu, là việc xác định tất cả các quy cách, chủng loại và thời gian nhận hàng, lập đơn hàng là công việc hết sức quan trọng của quá trình tổ chức mua sắm vật tư, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình mua sắm vật tư và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một sai sót nào cũng có thể dẫn tới việc đặt mua những vật tư mà nhu cầu sản xuất không cần tới hoặc không đủ so với nhu cầu. Để lập được đơn hàng chính xác bộ phận lập đơn hàng phải tính đến các cơ sở như: nhiệm vụ sản xuất, hệ thống định mức tiêu dùng vật tư, định mức dự trữ vật tư, lượng tồn kho, kế hoạch tác nghiệp đảm bảo vật tư quý, tháng … Nhiệm vụ quan trọng trong công tác lập đơn hàng là chọn và đặt mua những loại vật tư hàng hoá có hiệu quả kinh tế cao.

2.1.5. Tổ chức chuyển đưa vật tư về doanh nghiệp

Vận chuyển vật tư hàng hoá về doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo vật tư kịp thời, đầy đủ và đồng bộ cho sản xuất. Công việc

này ảnh hưởng trực tiếp tới việc giữ gìn số lượng, chất lượng vật tư hàng hoá, đảm bảo sử dụng có hiệu quả và hạ giá thành sản phẩm. Chuyển đưa vật tư về doanh nghiệp có thể thực hiện bằng hình thức tập trung hoặc phi tập trung tuỳ theo khối lượng vật tư và tình hình cụ thể từng doanh nghiệp.

2.1.6. Tiếp nhận và bảo quản vật tư về số lượng và chất lượng

Vật tư hàng hoá chuyển về doanh nghiệp trước khi nhập kho phải qua khâu tiếp nhận về số lượng và chất lượng. Mục đích của tiếp nhận là kiểm tra số lượng và chất lượng vật tư nhập kho, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng và đưa hàng xem có bảo đảm số lượng và chất lượng hay không để xác định rõ trách nhiệm của những đơn vị và cá nhân có liên quan đến hàng nhập.

2.1.7. Tổ chức cấp phát vật tư trong nội bộ doanh nghiệp

Cấp phát vật tư cho các đơn vị tiêu dùng trong doanh nghiệp (phân xưởng, tổ đội sản xuất, nơi làm việc của công nhân) là một khâu công hết sức quan trọng. Tổ chức tốt khâu này sẽ bảo đảm cho sản xuất của doanh nghiệp tiến hành được nhịp nhàng, góp phần tăng năng suất lao động của công nhân, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm vật tư trong tiêu dùng sản xuất, nâng cao hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh.


2.2. Quá trình sản xuất sản phẩm

Quá trình sản xuất là quá trình con người sử dụng tư liệu để tác động vào đối tượng lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hoá của đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao, thỏa mãn đầy đủ nhu cầu đa dạng của con người.‌

Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của thị trường và thu về cho mình một khoản lợi nhuận nhất định. Để thực hiện được mục tiêu của mình, mỗi doanh nghiệp phải tổ chức tốt các bộ phận cấu thành nhằm thực hiện chức năng cơ bản. Sản xuất là một trong những phân hệ chính có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ cho xã hội. Hình thành, phát triển và tổ chức điều hành tốt hoạt động sản xuất là cơ sở và yêu cầu thiết yếu để mỗi doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển trên thị trường. chỉ có hoạt động sản xuất hay dịch vụ mới là nguồn gôc của

mọi sản xuất và dịch vụ được tạo ra trong doanh nghiệp. Sự phát triển của sản xuất và dịch vụ là cơ sở làm tăng giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, tăng trưởng kinh tế cho nền kinh tế quốc dân tạo cơ sở vật chất thúc đẩy xã hôi phát triển. Quá trình sản xuất được tổ chức và quản lý tốt góp phần tiết kiệm được các nguồn lực cần thiết cho sản xuất, giảm giá thành, tăng năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ do khâu sản xuất và dịch vụ tạo ra, nếu hoàn thiện được quản trị sản xuất sẽ tạo ra tiềm năng to lớn cho nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

2.3. Tiêu thụ sản phẩm

Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là thực hiện mục đích của sản xuất hàng hoá, là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian một bên là sản xuất và phân phối còn một bên là tiêu dùng.‌

Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu của khách hàng, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng… nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp bao gồm hai loại quá trình liên quan trực tiếp tới sản phẩm: các nghiệp vụ kỹ thuật sản xuất và các nghiệp vụ kinh tế, tổ chức và kế hoạch hoá tiêu thụ. Việc chuẩn bị hàng hoá để xuất bán là nghiệp vụ tiếp tục sản xuất trong khâu lưu thông, các nghiệp vụ sản xuất ở các kho bao gồm: tiếp nhận, phân loại, bao gói, lên nhãn hiệu sản phẩm, xếp hàng ở kho, bảo quản và chuẩn bị đồng bộ hàng để xuất bán và vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách. Khi sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng của sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện ở các hoạt động dịch vụ.

Tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của

khách hàng. Về phương diện xã hội thì nó có vai trò trong việc cân đối giữa cung và cầu, sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm giúp các đơn vị xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.


Sơ đồ 1.2: Mô hình tiêu thụ sản phẩm

2.3.1. Nghiên cứu thị trường:‌

Nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên và cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu thị trường nhằm trả lời các câu hỏi: sản xuất những sản phẩm gì? sản xuất như thế nào? sản phẩm bán cho ai?… Mục đích của việc nghiên cứu thị trường là nghiên cứu xác định khả năng tiêu thụ những loại hàng hoá (hoặc nhóm hàng) trên một địa bàn nhất định trong một khoảng thời gian nhất định. Trên cơ sở đó nâng cao khả năng cung cấp để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường. Nghiên cứu thị trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng, giá bán, mạng lưới và hiệu quả của công tác tiêu thụ. Việc nghiên cứu còn giúp doanh nghiệp biết được xu hướng, sự biến đổi nhu cầu của khách hàng, sự phản ứng của họ đối với sản phẩm của doanh nghiệp, thấy được các biến động của thu nhập và giá cả, từ đó có các biện pháp điều chỉnh cho phù hợp. Khi nghiên cứu thị trường sản phẩm, doanh nghiệp phải giải đáp được các yêu cầu:

- Đâu là thị trường có triển vọng đối với sản phẩm của doanh nghiệp?

- Khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường đó ra sao?

- Doanh nghiệp cần phải xử lý những biện pháp gì có liên quan và có thể sử dụng những biện pháp nào để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ?

- Những mặt hàng nào, thị trường nào có khả năng tiêu thụ với khối lượng lớn phù hợp với năng lực và đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp?

- Với mức giá nào thì khả năng chấp nhận của thị trường là lớn nhất trong từng thời kỳ.

- Yêu cầu chủ yếu của thị trường về mẫu mã, bao gói, phương thức thanh toán, phương thức phục vụ.

- Tổ chức mạng lưới tiêu thụ và phương thức phân phối sản phẩm.

Nghiên cứu cần về một loại sản phẩm là phạm trù phản ánh một bộ phận nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường về sản phẩm đó. Phải giải thích được sự thay đổi của cầu, do những nhân tố nào sự ưu thích, thu nhập và mức sống của người tiêu dùng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/08/2022