Các Hiệp Định Đầu Tư Song Phương Và Đa Phương

của phía đối tác nước ngoài trong từng lĩnh vực cụ thể, thay vào đó, nước này đưa ra qui định chung về tỷ lệ góp vốn tối thiểu đối với các nhà ĐTNN tại Trung Quốc là 25%. Hàn Quốc qui định tỷ lệ góp vốn của phía nhà ĐTNN phải từ 10% trở lên [11].

c. Qui định lĩnh vực ưu đãi đầu tư.

Việt Nam qui định cụ thể các lĩnh vực khuyến khích đầu tư bao gồm 2 danh mục khuyến khích: danh mục các lĩnh vực ưu đãi dầu tư và danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư10. chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công nghệ mới; vào các địa bàn là các khu công nghiệp, khu chế xuất.

Tại Hàn Quốc có 533 ngành nghề thuộc diện khuyến khích đầu tư trong đó có 436 ngành sản xuất liên quan đến lĩnh vực công nghệ mới (VD: điện tử thông tin và điện khí, lĩnh vực cơ khí, vật liệu mới, lĩnh vực thiết bị quang học trị liệu, vận tải hàng không...) và 97 ngành dịch vụ hỗ trợ sản xuất. Các nước Châu Á khác cũng muốn ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp, chế tạo, các ngành nghiên cứu phát triển để hướng tới xây dựng một nền kinh tế tri thức nên đều có các danh mục khuyến khích đầu tư vào các ngành này11. Các loại ngành nghề khuyến khích đầu tư tại Trung Quốc được qui định trong danh mục hướng dẫn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, còn có các ngành nghề khuyến khích đầu tư được qui định trong danh mục

hướng dãn đầu tư nước ngoài vào khu vực miền Tây Trung Quốc nhằm thu hẹp khoảng cách của vùng này với các khu vực khác trong nước.

1.2.3. Các qui định liên quan khác

a. Qui định về huy động vốn tại chỗ.



10 Điều 27, 28 Luật Đầu tư 2005.

11 Tại Thái Lan, lĩnh vực khuyến khích đầu tư bao gồm: lĩnh vực sản xuất sử dụng nguyên liệu nông nghiệp, lĩnh vực công nghiệp nhẹ, lĩnh vực khai thác mỏ, gốm, luyện kim, lĩnh vực cơ khí chế tạo, sản xuất thiết bi vận tải, lĩnh vực chế tạo máy móc thiết bị điện tử, điện khí, lĩnh vực hoá học, giấy, nhựa, lĩnh vực dịch vụ công cộng, lĩnh vực bảo vệ môi trường, lĩnh vực đào đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học.

Malaysia khuyến khích đầu tư vào các ngành chế tạo, nông nghiệp, du lịch, ngành công nghệ ca, các nhành nghien cứu và phát triển; đặc biệt khuyến khích dàu tư vào ngành công nghệ cao và nghien cứu phát triển công nghệ.

Singapore: ưu đãi đối với công nghệ mới, lĩnh vực nghiên cứu khoa học và các dịch vụ thiết yếu cho hoạt động kinh doanh quốc tế như: điện tử, hoá dầu, sinh học, cơ khí, lĩnh vực giáo dục, trị liệu, lưu thông hàn hoá, phương tiện thông tin liên lạc và các dịch vụ liên kết đa quốc gia.

Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam qui định nhà đầu tư được tự chủ lựa chọn phương thức huy động vốn12. Luật cũng qui định nhà đầu tư có dự án đầu tư được thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam để vay vốn thực hiện dự án theo quy định của pháp luật13.

Luật Hàn Quốc không qui định hạn chế về việc các doanh nghiệp huy động vốn từ các doanh nghiệp trong nước về cả thời hạn vay vốn và giá trị vốn vay. Tuy nhiên các khoản này bị giới hạn về mục đích sử dụng. Singapore và Thái Lan không có qui định hạn chế về đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư được phép tự do thoả thuận về việc vay vốn với các ngân hàng trong nước. Tại Malaysia, để huy động vốn tại chỗ, các nhà ĐTNN phải đáp ứng điều kiện đó là có sự bảo lãnh tối thiểu 60% khoản vay bởi một tổ chức tín dụng tại Malaysia. Khi đó, nhà đầu tư sẽ được vay với mức tối đa bằng 3 lần tổng vốn đầu tư nhưng không được vượt quá 10 triệu ringit. Tại Trung Quốc, thông thường việc vay vốn và huy động vốn của các doanh nghiệp FDI được thực hiện từ các ngân hàng ở nước ngoài.

Trong số các nước so sánh, có thể thấy Singapore và Thailand rất ưu ái các nhà ĐTNN trong vấn đề huy động vốn tại chỗ. Qui định của Việt Nam cũng thông thoáng hơn, theo đó, các nhà ĐTNN được tự chủ trong việc huy động nguồn vốn.

b. Qui định về quản lý ngoại hối.

Cũng giống Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài 2000, Luật Đầu tư 2005 qui định: nhà đầu tư được mở tài khoản ngoại tệ và tài khoản tiền đồng Việt Nam tại ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam. Trong trường hợp được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận, nhà đầu tư được mở tài khoản tại ngân hàng ở nước ngoài14. Chính phủ bảo đảm cân đối hoặc hỗ trợ cân đối ngoại tệ đối với một

số dự án quan trọng trong lĩnh vực năng lượng, kết cấu hạ tầng giao thông, xử lý chất thải. Nhà ĐTNN được phép chuyển tiền ra nước ngoài sau khi thực hiện đày đủ các nghĩa vụ về thuế.


12 Điều 13 khoản 1 Luật Đầu tư 2005.

13 Điều 18 Luật Đầu tư 2005.

14 Điều 61 khoản 1 Luật Đầu tư 2005.

Ở Thái Lan, hiện không có qui định về việc sử dụng ngoại tệ cho thu chi và thanh toán cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp nguồn thu từ xuất khẩu hoặc từ các hoạt động khác bằng ngoại tệ thì trong vòng 7 ngày, doanh nghệp có trách nhiệm chuyển đổi số ngoại tệ thu được sang tiền bạt hoặc chuyển vào tài khoản dự trữ ngoại tệ. Malaysia lại có qui định tương đối khác biệt so với các nước, Luật của Malaysia cho phép công dân mình tự do chuyển tiền ra nước ngoài với những giao dịch trị giá 100.000 ringit trở xuống, nếu giao dịch lớn hơn thì phải xin phép cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, theo qui định về việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của luật đầu tư Malaysia, nếu doanh nghiệp đã nộp đầy đủ hồ sơ cần thiết theo yêu cầu của ngân hàng thì được phép chuyển tiền mà không hạn chế gì. Singapore không có qui chế về chuyển ngoại tệ ra nước ngoài và vay vốn bằng ngoại tệ từ nước ngoài.

Còn theo các qui định về quản lý ngoại tệ của Trung Quốc, về cơ bản không có hạn chế chuyển đổi ngoại tệ nhằm mục đích phục vụ cho các giao dịch xuất nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, những giao dịch về vốn thì chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn. Nhà ĐTNN tại Hàn Quốc được phép chuyển về nước khoản lợi nhuận hơp pháp thu được từ hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh sau khi nộp đầy đủ báo cáo tài chính cho cơ quan quản lý nước sở tại. Đối với các khoản lợi nhuận khác (không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh) nếu cũng được đưa vào báo cáo tài chính và chịu thuế thì cũng được phép chuyển ra nước ngoài theo qui định của Pháp luật.

Tổng hợp các qui chế về đầu tư của các nước Đông Á, chúng ta dễ thấy Việt Nam có ưu thế về thuế thu nhập doanh nghiệp, qui chế về lĩnh vực hạn chế và cấm đầu tư và qui chế về tỷ lệ góp vốn. Các qui chế này đã thay đổi nhằm tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư. Trong số các nước so sánh, ưu điểm phải kể đến hai quốc gia là Singapore và Hàn Quốc. Hai nước này có hành lang pháp lý hoàn thiện nhất (đứng đầu là Hàn Quốc, theo sau là Singapore). Trung Quốc là quốc gia có các qui định pháp luật được coi là khắt khe nhất, hệ thống pháp luật kém thông thoáng nhất. Nếu đánh giá thứ tự các nước so sánh trên thì xếp dưới cùng là Trung Quốc . Do có những cải cách đáng khích lệ nên hành lang pháp lý của Việt Nam được đánh giá là

thông thoáng hơn Thái Lan, nhưng vẫn thua Malaysia và tất nhiên là kém xa Hàn Quốc và Singapore.

Theo các cuộc khảo sát, Việt Nam là nước mà các nhà ĐTNN phải đối mặt với nhiều vấn đề trong kinh doanh hơn các nước khác trong khu vực. Hầu hết các vấn đề mà các nhà đầu tư phải đối mặt là việc thiếu tính đồng bộ, không chắc chắn, thống nhất trong hệ thống thuế và pháp luật. Việc trình bày không rõ ràng và giải thích không nhất quán về luật pháp cũng dẫn đến nhiều bất cập trong việc thực thi. Luật đầu tư chung đã ra, cùng với luật doanh nghiệp là hai luật điều chỉnh các hoạt động đầu tư kinh doanh của Việt Nam nhưng thực tế hai luật này có những vấn đề xung đột, chồng chéo nhau, gây khó dễ cho hoạt động đầu tư cũng như việc quản lý đầu tư. Vì vậy, để đạt được mục tiêu thu hút nhiều FDI, chính phủ cần phải có hướng dẫn cụ thể để tháo gỡ những bất đồng trên và do đó sẽ tạo được một môi trường đầu tư thực sự thông thoáng và hấp dẫn.


1.3. Các hiệp định đầu tư song phương và đa phương

Chính phủ Việt Nam đã ký kết hơn 48 hiệp định song phương về đầu tư với một số đối tác đàu tư hàng đầu tại Việt Nam. Mỗi hiệp định đều góp phần cải thiện hoạt động đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, tiêu biểu nhất phải kể đến qui định đầu tư trong hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực từ tháng 12/2001, là hiệp định song phương đầu tiên theo nguyên tắc WTO; hiệp định về tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam – Nhật Bản 11/2003; sáng kiến chung Việt – Nhật tháng 12/200315. Những hiệp định này đã mở ra cơ hội mới cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI tiếp cận các thị trường nước ngoài và tạo điều kiện thu hút FDI vào các lĩnh vực có lợi thế xuất khẩu. Mặt khác, những cam kết trong khuôn khổ các hiệp


15 “Sáng kiến chung Nhật Bản-Việt Nam” được Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Phan Văn Khải và Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi thống nhất nhằm cải thiện môi trường đầu tư và tăng cường sức cạnh tranh của Việt Nam. Mục tiêu cụ thể của sáng kiến này là chia sẻ và thực hiện những chính sách và những biện pháp ưu tiên và cụ thể sẽ được thực hiện để thúc đẩy việc tăng trưởng kinh tế của Việt nam bằng cách huy động toàn bộ nguồn lực và những cam kết của hai Chính phủ (Việt nam và Nhật bản) thông qua các cuộc đối thoại và sự tham gia của các nhà lãnh đạo cấp cao của hai bên. Điểm quan trọng nhất của sáng kiến chung này là xây dựng Chương trình Hành động với hai vấn đề chính sẽ được giải quyết. Chương trình Hành động sẽ được tích cực thực hiện và được điều hành một cách hợp lý.

- Tăng cường sức cạnh tranh để Việt Nam có thể vượt lên trong cuộc cạnh tranh với các nước châu á khác, và

- Thu hút đầu tư nước ngoài – một yếu tố không thể thiếu trong việc tăng cường sức cạnh tranh.

định vừa là đòi hỏi, vừa là động lực để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về FDI. Chính phủ Việt Nam cam kết tạo dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, ổn định và bình đẳng cho các nhà đầu tư. Nhiều thay đổi đã được thực thi như: xoá bỏ chế độ hai giá đối với hầu hết hàng hoá, dịch vụ, giảm dần những hạn chế về chuyển giao công nghệ, quản lý ngoại hối, đất đai. Số lượng các hiệp định đầu tư song phương mà Việt Nam ký kết đã thể hiện những nỗ lực không nhỏ của chính phủ Việt Nam. Nhưng so với các nước khác trong khu vực như Indonesia hơn 50 hiệp định, Hàn Quốc 60 hiệp định, Malaysia hơn 70, Trung Quốc hơn 100 hiệp định thì con số của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn [15].

Bên cạnh các hiệp định song phương, Việt Nam còn tích cực tham gia vào các điều ước và diễn đàn quốc tế đa phương như: Hịêp định khung thành lập khu vực đầu tư ASEAN (AIA) 1998; chương trình tự do hoá đầu tư với các nguyên tắc đầu tư không ràng buộc của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC); chương trình hành động về xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ chương trình hợp tác Á - Âu (ASEM).

Chính phủ Việt Nam cũng nỗ lực trong việc củng cố mở rộng cơ chế pháp lý đa phương về đầu tư bằng việc ký kết nghị định thư sửa đổi hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, tham gia hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN

– Trung Quốc và các hiệp định tương tự với Nhật Bản, triển khai chương trình hành động về tự do hoá đầu tư và xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ APEC, ASEM.Việt Nam cũng đã cam kết tuân thủ hoàn toàn hiệp định Các biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMs) của WTO, cam kết xoá bỏ các rào cản về đầu tư, với mục tiêu tăng cường tính hấp dẫn, thông thoáng và minh bạch của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Việc tham gia vào các hiệp định song phương và đa phương về đầu tư của Việt Nam đã tạo điều kiện cho các nhà ĐTNN có một sân chơi rộng mở và bình đẳng trong sản xuất kinh doanh tại Việt Nam, đồng thời góp phần thiết lập một khung pháp lý hiệu quả nhằm cải thiện môi trường đầu tư, vừa bảo vệ quyền lợi cho nhà ĐTNN, vừa phục vụ cho những lợi ích xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá của nước ta. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, những hiệp định đầu tư này chỉ tạo ra lợi thế

cho Việt Nam so với các nước ngoài khu vực, đối với các nước trong khu vực cũng tham gia vào các hiệp định đó thì không tạo ra được sự khác biệt rõ rệt.

2. Các yếu tố kinh tế quốc gia

2.1. Qui mô và tăng trưởng thị trường

a. Qui mô thị trường

Tính đến tháng 12 năm 2006, dân số Việt Nam là trên 84 triệu người. Thu nhập quốc dân (GNI) trên 52 tỷ USD và thu nhập quốc dân theo đầu người là 620 USD/năm [29] , vẫn thấp hơn nhiều nước trong khu vực (Xem bảng 3)

Mặc dù vậy, với dân số thuộc vào loại đông trong khu vực, Việt Nam có thể trở thành một thị trường hấp dẫn đối với các công ty quan tâm tới thị trường trong nước. Tỷ trọng vốn FDI trong các ngành định hướng vào thị trường trong nước như công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp nặng, sản xuất nguyên vật liệu xây dựng đã đạt ở mức tương đối cao.

Tuy nhiên, khi xét đến dung lượng thị trường ngày nay không chỉ bó hẹp trong thị trường của một quốc gia nữa, mà mở rộng ra thị trường của toàn khu vực. Quy mô thị trường do đó còn phụ thuộc vào khả năng thâm nhập thị trường khu vực và quốc tế của các nhà ĐTNN hoạt động tại nước chủ nhà. Hầu hết các nhà ĐTNN đánh giá khả năng thâm nhập thị trường như một trong những nhân tố quan trọng để mở rộng sản xuất ra nước ngoài và quyết định địa bàn đầu tư. Xét về khả năng thâm nhập thị trường khu vực và toàn cầu, cho đến nay, Việt Nam được đánh giá là kém hơn so với các nước ASEAN và Trung Quốc. So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam vẫn đứng thứ 7, chỉ hơn Lào, Campuchia và Myanma. Nếu so với Trung Quốc, Việt Nam mới chỉ có mức GDP bằng của Trung Quốc 10 năm trước.

Bảng 3 : So sánh một số chỉ tiêu quyết định dung lượng thị trường quốc gia



Khu vực/nền kinh tế


Nhóm thu nhập

GNI

(tỷ USD)

GNI/ngư- ời (USD)

GNI/người theo PPP16 (USD)

Dân số (triệu người)

Việt Nam

Thu nhập thấp

52

620

3010

83,8


Trung Quốc

Thu nhập dới trung bình


2264


1740


6600


1.301


Thái Lan

Thu nhập dới trung

bình


177


2750


8440


64,4

Malaysia

Thu nhập cao

126

4960

10320

25,4

Singapore

Thu nhập cao

120

27490

28780

4,5

Hàn Quốc


768,8

16291


48,3

Thế giới


3368

5625

9420


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.

Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trên bản đồ các nước Đông Á, thực trạng và giải pháp - 8

Nguồn: World Bank Developmet Report 2005

b. Tăng trưởng thị trường

Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Năm 2006, mức tăng trưởng GDP lên tới 8,1%. Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân trung bình trong giai đoạn 2001 – 2005 đạt 6,88%, khá cao so với các nước khác trong khu vực (mặc dù vẫn kém xa so với Trung Quốc).

Bảng 4. Một số chỉ tiêu kinh tế trung bình giai đoạn 2001 - 2005


Chỉ tiêu

Trung Quốc

Hàn Quốc

Malaysia

Thái Lan

Việt Nam

Singapore

Tăng trưởng GDP

8,18%

4,78%

4,2%

5,52%

6,88%

2,36%

Tỷ lệ đầu t/GDP

40,28%

28,7%

22,74%

24,96%

32,24%

19,74%

Lạm phát

1,36%

3,26%

1,52%

1,82%

3,28%

0,8%

Tăng mức cung tiền

17,82%

9,16%

7,98%

3,62%

19,04%

5,84%

Tăng trưởng xuất khầu hàng hoá


18,76%


10,96%


4,8%


8,8%


10,88%


5,38%

Tăng trưởng nhập

khẩu hàng hoá


21,18%


10,98%


5,34%


9,92%


15,5%


2,96%

Nguồn: http://www.adb.org/


16 PPP (Purchasing Power Parity): ngang giá sức mua.

2.2. Các nguồn lực

2.2.1. Nguồn lực tự nhiên

Mặc dù tầm quan trọng tương đối của các yếu tố nguồn lực tự nhiên ngày càng giảm đi trong các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà ĐTNN, nhưng không thể phủ nhận vai trò của nó trong môi trường đầu tư của nước chủ nhà. Đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nguồn lực tự nhiên là một nhân tố quan trọng trong mức độ hấp dẫn đầu tư của môi trường đầu tư nước chủ nhà. Chúng ta có thể đánh giá nguồn lực tự nhiên của Việt Nam so với các nước trong khu vực thông qua một số tiêu chí sau:

- Vị trí địa lý

Toạ lạc ở phía Đông của bán đảo Đông Dương, Việt Nam nằm ở trung tâm của vùng Đông Nam Á. Điều này tạo ra lợi thế về địa lý của Việt Nam là tiếp xúc thuận lợi với phần còn lại của thế giới. Các tuyến hàng không và hàng hải chính đều nằm gần Việt Nam, do đó rất thuận lợi cho các tuyến dẫn đến các thị trường lớn.

Khí hậu Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp, phần biển tiếp giáp lại có lợi cho những hoạt động kinh tế dưới nước như đánh bắt cá và nuôi trồng thủy hải sản.

- Nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú bao gồm dầu, khí đốt, quặng kim loại và phi kim loại.

Tuy nhiên, so sánh với các nước khác trong khu vực, yếu tố nguồn lực tự nhiên của Việt Nam không phải là một thế mạnh nổi bật hơn hẳn. UNCTAD đã nghiên cứu và đánh giá mức độ sẵn có của tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia. Đánh giá dựa trên ba nhân tố là nguồn khoáng sản, sản phẩm nông nghiệp và dự trữ năng lượng. Thang điểm được đánh giá từ 1 đến 100 với điểm 100 thể hiện khả năng cạnh tranh cao nhất và điểm 1 là thiếu cạnh tranh nhất.

Xem tất cả 133 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí