Mục Tiêu Hoàn Thiện Mô Hình Tổ Chức Và Cơ Chế Hoạt Động Của Ktnn Việt Nam


nước, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh, ổn định và bền vững. Kiểm toán là một vấn đề có tính toàn cầu, đồng thời kiểm toán còn là vấn đề mang tính "văn hoá", thể hiện bản sắc của quốc gia. Các kinh nghiệm quốc tế, hệ thống chuẩn mực kiểm toán của tổ chức INTOSAI, IFAC và Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ ban hành chính là cơ sở, nền tảng để xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán của mỗi quốc gia, cho phép tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí cho mỗi nước, đồng thời đảm bảo phát triển hài hoà với thế giới và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, thể chế chính trị, môi trường pháp lý, nghề nghiệp, cơ chế kinh tế của mỗi nước cũng có đặc thù riêng đòi hỏi sự phát triển của KTNN phải tuân thủ và thích ứng thì mới có điều kiện để phát triển và phục vụ đắc lực cho công tác quản lý ở từng quốc gia.

3.1.2 Mục tiêu hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của KTNN Việt Nam

3.1.2.1 Nâng cao chất lượng hoạt động của KTNN trong việc đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực của việc quản lý, sử dụng tiền và tài sản nhà nước

Trong những năm vừa qua, do KTNN mới ra đời còn ít về số lượng các KTV do đó phạm vi kiểm toán rất nhỏ so với nhu cầu của nền kinh tế, mặt khác do chưa kịp thời ban hành các quy định, quy trình, chuẩn mực kiểm toán nên chất lượng kiểm toán còn hạn chế cả về vấn đề xác nhận tính trung thực và hợp pháp của các số liệu tài chính – kế toán cũng như về các kiến nghị với các bên liên quan trong việc sửa đổi sai phạm về quản lý kinh tế- tài chính. Mục tiêu lâu dài

để phát triển KTNN tương xứng với nhiệm vụ và vai trò mà Nhà nước và x? hội giao cho cần phải hoàn thiện KTNN theo 2 hướng cơ bản sau:

a. Một là: Nhanh chóng thực hiện đầy đủ các chức năng kiểm toán của KTNN trong việc đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực trong mọi hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước. Trong thời gian vừa qua KTNN mới chủ yếu thực hiện chức năng xác nhận sự trung thực và hợp pháp các thông tin của các BCTC tại các đơn vị có sử dụng ngân sách. Trên thế giới, nhiều nước coi hình thức KTHĐ để thực hiện chức năng đánh giá tính kinh tế, hiệu quả của các hoạt


động kinh tế là chủ yếu. Để triển khai được hình thức KTHĐ cần có một số điều kiện về trình độ của KTV, về các quy định, quy trình kiểm toán riêng, các tiêu chí đánh giá phải được làm hoàn thiện và phù hợp với thực tiễn để làm cơ sở cho việc đánh giá là tốt hay xấu. Muốn vậy cần phải nhanh chóng tuyển chọn được

đội ngũ KTV có nhiều kinh nghiệm, các chuyên gia giỏi trong các ngành kỹ thuật, công nghệ. Đồng thời tăng cường việc đào tạo, cập nhật thông tin cho đội ngũ KTV đủ khả năng đóng góp đáp ứng yêu cầu của công việc đòi hỏi chuyên môn cao. Mặt khác phải nhanh chóng ban hành các chuẩn mực kiểm toán liên quan đến hình thức KTHĐ để dần dần đưa hình thức kiểm toán này chiếm tỷ trọng tương đối trong kế hoạch kiểm toán hàng năm. Cần coi trọng và mạnh dạn triển khai các hình thức kiểm tra trước và kiểm tra trong quá trình hoạt động của các đối tượng kiểm toán như vừa qua đ? tiến hành đó là việc kiểm toán trong quá trình thi công xây dựng cầu Thanh Trì, công trình Trung tâm hội nghị Quốc gia, trụ sở làm việc mới của Bộ tài chính. qua đó rút kinh nghiệm để có cơ sở chỉ đạo tốt hơn trong việc đánh giá hiệu quả của việc giám sát đồng thời với quá trình thi công. Đây là một hình thức kiểm toán có tính phòng ngừa, chống l?ng phí rất có hiệu quả được nhiều nước trên thế giới áp dụng phổ biến.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

b. Hai là: Phải nhanh chóng nâng cao năng lực và chất lượng của KTNN trong việc thực hiện nhiệm vụ. Hiện nay do số lượng các KTV và quy mô kiểm toán khu vực còn hạn chế, chưa thực hiện được việc kiểm toán tại tất cả các đối tượng thuộc phạm vi kiểm toán theo quy định. Về nhiệm vụ, hằng năm KTNN phải đảm bảo kiểm toán đầy đủ báo cáo quyết toán NSNN của tất cả các đơn vị thuộc các cấp ngân sách, các đơn vị thụ hưởng NSNN, các tổ chức chính trị, quần chúng có sử dụng NSNN…với nhiệm vụ được giao như trên là một khối lượng công việc khổng lồ. Để đáp ứng được khối lượng công việc ấy là việc rất khó, đòi hỏi quy mô KTNN phải lớn gấp nhiều lần hiện nay, yêu cầu công tác phát triển các KTNN khu vực, kiểm toán chuyên ngành phải tăng nhanh về số lượng. Tuy nhiên do phương pháp của kiểm toán là chọn mẫu do đó có thể hàng năm chọn mẫu một số đối tượng để tiến hành kiểm toán nhưng đòi hỏi mẫu chọn phải lớn


Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của kiểm toán nhà nước Việt Nam - 18

và hợp lý, mang tính đại diện cho tổng thể; không cần thiết phải kiểm tra toàn bộ các đối tượng kiểm toán để tiết kiệm chi phí. Mặt khác cần nâng cao về chất lượng công tác kiểm toán và báo cáo kiểm tra để có thể đưa ra được nhiều thông tin hơn, chính xác hơn, có nhiều kiến nghị phù hợp với thực tế nhằm giúp Quốc hội, Chính phủ cũng như tại chính các đối tượng kiểm toán có được các quyết

định quản lý tốt hơn. Để nâng cao được chất lượng công tác kiểm toán cần làm tốt một số việc sau:

Thứ nhất cần tuyển chọn được những KTV có trình độ chuyên môn sâu, nhiều kinh nghiệm, tuyển chọn được các chuyên gia trong một số ngành kỹ thuật và công nghệ.

Thứ hai là nhanh chóng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng KTV, đổi mới các hình thức cập nhật kiến thức mới nhằm cung cấp kịp thời các thay đổi về quy định quản lý cho đội ngũ KTV, cung cấp kịp thời các thay đổi về quy định quản lý cho đội ngũ KTV, cũng như các kiến thức x? hội cần thiết khác.

c. Ba là: khẩn trương ban hành các quy định về quy trình chung KTNN và các hướng dẫn phù hợp với các lĩnh vực kiểm toán mới, ban hành hệ thống chuẩn mực mới theo thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Ban hành quy trình kiểm soát chất lượng theo hướng tôn trọng sự độc lập của KTV, tổ đoàn kiểm toán. Đồng thời phải nhanh chóng thực hiện sự phân công cấp mạnh cho các kiểm toán chuyên ngành và kiểm toán khu vực trong việc xét duyệt, phát hành báo cáo kiểm toán để đáp ứng được khối lượng công việc ngày một nhiều hơn với chất lượng cao hơn.

3.1.2.2 Nâng cao hiệu lực pháp luật về kinh tế - tài chính đối với Chính phủ, các đơn vị sử dụng tiền và tài sản của Nhà nước

Thông qua hoạt động kiểm toán, cần nâng cao chất lượng báo cáo kiểm toán

đáp ứng được vai trò cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các sai phạm của các đơn vị sử dụng NSNN. Với chức năng kiểm toán tuân thủ, kiểm toán BCTC, KTHĐ, kiểm toán trước và trong quá trình hoạt động của

đối tượng để kịp thời phát hiện các hành vi sai phạm, l?ng phí của công và phòng


ngừa các hành vi tham nhũng của các cá nhân, tổ chức có sử dụng NSNN. Chất lượng của báo cáo kiểm toán cần đưa ra được các kiến nghị xử lý sai phạm nghiêm khắc, tránh hiện tượng nể nang, bỏ qua sai sót bằng cách nhắc nhở, khi phát hiện vụ việc có dấu hiện hình sự cần chuyển hồ sơ sang các cơ quan pháp luật để khởi tố vụ án. Đây là vấn đề rất được dư luận quan tâm trong thời gian qua, tuy nhiên KTNN mới đưa được một số hồ sơ có dấu hiệu tham nhũng ra cơ quan pháp luật để khởi tố mặc dù có rất nhiều phát hiện về các sai phạm trên nhiều lĩnh vực về XDCB, sử dụng NSNN, đầu tư không hiệu quả ở các DNNN… Mặt khác cần đẩy mạnh việc minh bạch hoá và lành mạnh hoá các thông tin tài chính, cung cấp cho Quốc hội, Chính phủ có thêm thông tin trong việc sửa đổi hệ thống luật pháp về kinh tế tài chính tạo được hành lang thông thoáng trong kinh doanh, thu hút được nhiều nguồn đầu tư hơn từ nước ngoài, từ các nguồn kinh tế tư nhân và x? hội để tham gia phát triển kinh tế. Tăng cường việc thu thập các ý kiến phản hồi từ cơ sở, các đánh giá và kiến nghị của đối tượng kiểm toán về những bất cập của hệ thống luật pháp để đề xuất và kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ sửa đổi các luật hiện hành, ban hành các luật mới phù hợp với thực tiễn đời sống x? hội.

3.1.2.3 Hỗ trợ Quốc hội trong việc tăng cường năng lực giám sát NSNN

Trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, vấn đề đảm bảo an ninh kinh tế – tài chính của một quốc gia là vấn đề sống còn bên cạnh việc đảm bảo an ninh quốc phòng và sự toàn vẹn l?nh thổ. Để đảm bảo được điều đó đòi hỏi phải kiện toàn hệ thống giám sát kinh tế- tài chính ở mức độ cao, coi đó như là biện pháp quan trọng không thể thiếu được giúp cho nền kinh tế không bị lâm vào tình trạng mất ổn định và khủng hoảng như các nước Châu ¸ vào những năm 1997. Hệ thống giám sát này phải kịp thời phát hiện những bất ổn trong hệ thống tài chính và kịp thời đưa ra các biện pháp phòng ngừa những nguy cơ xảy ra khủng hoảng kinh tế- tài chính của đất nước. Trong tuyên bố Lima cũng nêu rất rõ nguy cơ của một nền kinh tế dễ lâm vào khủng hoảng và l?ng phí các nguồn lực khi không có được một cơ quan kiểm tra tài chính độc lập làm nhiệm vụ kiểm


tra và phát hiện các bất ổn của nền kinh tế, góp phần làm minh bạch hóa nền tài chính của một quốc gia. Quốc hội với tư cách là cơ quan có quyền quyết định dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn tổng quyết toán NSNN,

đồng thời Quốc hội có quyền giám sát việc chấp hành dự toán NSNN, quyết định các chính sách tài chính. Để thực hiện được những quyền quan trọng đó, bên cạnh năng lực của các đại biểu Quốc hội, các nguồn thông tin mà Quốc hội có được, cần thiết phải có cơ quan KTNN với tư cách là một công cụ hữu hiệu giúp Quốc hội giám sát và kiểm soát các hoạt động kinh tế- tài chính vĩ mô của Nhà nước.

Thông qua chức năng, nhiệm vụ của mình, KTNN cung cấp thông tin cho Quốc hội để thực hiện các quyền của Quốc hội. Trong những năm vừa qua, nhiệm vụ này của KTNN được thực hiện còn yếu chưa tương xứng với vai trò của KTNN trong hệ thống các cơ quan kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước cũng như năng lực nội tại của KTNN. Do vậy KTNN cần nhanh chóng ban hành quy trình xây dựng báo cáo hàng năm để trình Quốc hội và các uỷ ban của Quốc hội nắm

được toàn cảnh một bức tranh tổng thể về tổng quyết toán NSNN và tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm quốc gia. Xây dựng và ban hành quy trình làm các báo cáo đột xuất và thường viên để trình Quốc hội khi có yêu cầu. Đây là mối quan hệ hữu cơ mật thiết giữa KTNN và Quốc hội, thông qua các báo cáo quan trọng

đó Quốc hội có cơ sở để đánh giá các hoạt động của Chính phủ trong một năm;

đưa ra được các quyết định quan trọng điều chỉnh cơ cấu và chính sách phát triển kinh tế; thấy được tình hình l?ng phí và sử dụng sai mục đích các nguồn lực hữu hạn của đất nước đ? có biện pháp điều chỉnh thích ứng. Mặt khác qua đó để KTNN phát huy được năng lực và nâng cao được uy tín của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, tăng cường khả năng răn đe đối với các hành vi tham ô, l?ng phí của công để góp phần làm tăng hiệu lực giám sát của Quốc hội và hiệu lực pháp luật về kinh tế- tài chính của Nhà nước.

3.1.2.4 Giải toả trách nhiệm cho Chính phủ, uỷ ban nhân dân các cấp trong việc tổ chức, thực hiện ngân sách

Theo quy định của pháp luật hiện nay việc quyết định dự toán ngân sách, phê chuẩn quyết toán ngân sách thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Hội đồng nhân


dân các cấp. Chính phủ, uỷ ban nhân dân các cấp có nhiệm vụ lập dự toán NSNN, phương án phân bổ ngân sách cấp tương ứng trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định. Đồng thời Chính phủ, uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện ngân sách đ? được Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định. Khi kết thúc năm ngân sách, Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân cùng cấp kết quả thực hiện ngân sách thông qua báo cáo quyết toán ngân sách năm. Khi báo cáo quyết toán ngân sách được phê chuẩn thì trách nhiệm việc tổ chức thực hiện ngân sách của Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp được giải toả, tức là Quốc hội và Hội đồng nhân dân đ? chấp thuận tính chính xác, tính hợp pháp và tính đầy đủ của báo cáo quyết toán vì vậy mà trách nhiệm của Chính phủ và uỷ ban nhân dân với năm ngân sách đ? kết thúc.

Báo cáo kiểm toán của KTNN là một trong những căn cứ để Quốc hội sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán NSNN, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án và công trình quan trọng quốc gia được

đầu tư từ nguồn NSSN; xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN và sử dụng trong hoạt động giám sát việc thực hiện NSNN, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nghị quyết của Quốc hội về NSSN; là căn cứ để Hội đồng nhân dân sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán, phân bổ và giám sát ngân sách địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Theo chức năng được luật quy định, KTNN có trách nhiệm xác nhận tính trung thực, hợp pháp và tính đầy

đủ của báo cáo quyết toán làm căn cứ vững chắc để Quốc hội và Hội đồng nhân dân phê chuẩn quyết toán ngân sách hàng năm.

Hiện nay hàng năm KTNN mới chỉ kiểm toán được gần 60% báo cáo quyết toán ngân sách hàng năm của các địa phương và khoảng 45% báo cáo ngân sách của các Bộ, ngành của Chính phủ. Xác định đây là nhiệm vụ quan trọng giúp Quốc hội và Hội đồng nhân dân trong việc phê chuẩn quyết toán ngân sách hàng năm, đồng thời giải toả được trách nhiệm cho Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp. Bước đầu xây dựng kế hoạch cho việc góp ý kiến với các Bộ, ngành và


địa phương khi xây dựng dự toán ngân sách cấp mình trước khi trình ra Quốc hội và Hội đồng nhân dân quyết định. Góp phần giải toả trách nhiệm hàng năm trong việc tổ chức thực hiện ngân sách của Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp.

3.2 Giải pháp cụ thể hoàn thiện mô hình tổ chức KTNN


3.2.1 Nguyên tắc chỉ đạo


3.2.1.1 Tổ chức và quản lý tập trung thống nhất


Độc lập về tổ chức, nhân sự và tài chính là những nguyên tắc cơ bản của một cơ quan KTNN, có như vậy mới có đủ điều kiện để thực hiện chức năng kiểm tra tài chính từ bên ngoài đối với cơ quan hành pháp. Kinh nghiệm ở những nước mà nền kinh tế còn kém phát triển như nước ta đều chọn mô hình tổ chức của cơ quan KTNN là thống nhất từ trung ương đến địa phương. Thực hiện chế

độ thủ trưởng, Tổng KTNN là người chịu trách nhiệm trước pháp luật, Quốc hội và Chính phủ về toàn bộ hoạt động của cơ quan KTNN. Theo mô hình này, tại trung ương có các bộ phận kiểm toán chuyên ngành, các bộ phận tham mưu giúp việc cho Tổng KTNN và các đơn vị sự nghiệp. Tại các khu vực có KTNN khu vực chịu trách nhiệm trước Tổng KTNN về phạm vi kiểm toán theo sự phân công

đối với một số địa phương nhất định. KTNN khu vực không phụ thuộc vào các

địa phương mà hoạt động độc lập chỉ phụ thuộc vào KTNN trung ương mà trực tiếp là Tổng KTNN. Giúp việc cho Tổng KTNN có các phó Tổng KTNN chịu trách nhiệm về lĩnh vực được phân công. Để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, có các bộ phận trực tiếp tiến hành các hoạt động kiểm toán và các bộ phận tham mưu giúp việc cho Tổng KTNN trên cơ sở phân công nhiệm vụ và uỷ quyền của Tổng KTNN. Các bộ phận tiếp nhận thực hiện công việc kiểm toán được ra các quyết định quản lý trong phạm vi trách nhiệm của mình, các đơn vị tham mưu có trách nhiệm đưa ra các ý kiến tham mưu, tư vấn cho người l?nh đạo bộ phận chức năng và Tổng KTNN trong việc thẩm định một số báo cáo kiểm toán lớn của

đoàn kiểm toán liên quan đến nhiều đơn vị. Tuỳ theo phân công, phân cấp mà KTNN khu vực có được quyền thực hiện kế hoạch và chủ động thông qua các


báo cáo kiểm toán phù hợp với chức năng nhiệm vụ một cách hiệu quả nhất. Theo mô hình này, cơ quan KTNN dễ quản lý về mặt chuyên môn nghiệp vụ, thống nhất trong việc chỉ đạo và điều hành thực hiện nhiệm vụ kiểm toán hàng năm; là điều kiện đảm bảo tính độc lập và khách quan trong việc kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách các cấp thuộc chính quyền địa phương do KTNN khu vực không bị lệ thuộc vào tổ chức và nhân sự cũng như tài chính vào chính quyền

địa phương các cấp.


3.2.1.2 Tiết kiệm và hiệu quả


Việc phân công, phân cấp và chuyên môn hoá đối với các bộ phận phải bảo

đảm cho việc đạt được mục tiêu tổng thể với hiệu quả cao và tiết kiệm. Cơ cấu tổ chức phải có sự ổn định tương đối và có tính thích nghi cao, việc uỷ quyền, trao quyền phải phù hợp với thực tiễn, trình độ và khả năng nhận thức của mỗi cấp, mỗi con người để đảm bảo sự thích nghi của tổ chức. Tăng cường tính chủ động sáng tạo để tiết kiệm các nguồn lực về con người, phương tiện tạo ra hiệu quả công việc cao và có chất lượng chuyên môn sâu. Kiểm toán là nghề đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực cao của mỗi cá nhân KTV, đòi hỏi phải tuân thủ những chuẩn mực và quy trình nhất định mới có được các sản phẩm kiểm toán cuối cùng là các báo cáo kiểm toán có chất lượng cao được các cơ quan quản lý nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và chính các đơn vị được kiểm toán đánh giá cao, phù hợp với thực tiễn đời sống x? hội. Mô hình tổ chức chỉ có một cơ quan KTNN với các

đơn vị trực thuộc tại các địa phương là các KTNN khu vực sẽ tiết kiệm được nhiều kinh phí hoạt động so với việc tổ chức các đơn vị trực thuộc nằm ở tất cả các tỉnh, thành trên cả nước, mặt khác nó tiết kiệm được cả thời gian trong việc

điều hành và chỉ đạo hoạt động kiểm toán hàng ngày


Mục đích của việc ra đời cơ quan KTNN là nhằm giúp cho x? hội phòng chống được sự l?ng phí tài sản nhà nước, làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, giúp cho quá trình sử dụng các nguồn lực của Chính phủ có hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn. Do đó bản thân KTNN phải là cơ quan hoạt động tiết kiệm và hiệu quả nhất như chính mục tiêu hình thành ra nó.

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 04/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí