2.3.1.3. Hoạt động liên kết còn đơn giản và nặng về hình thức
Trong các hoạt động liên kết, cả cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp đều đánh giá cao đối với việc liên kết về giao thông “ Hệ thống giao thông đã ngày càng hoạn thiện, đáp ứng nhu cầu phát triển” {A1.04} cũng như “ Việc di chuyển giữa hai địa phương bây giờ rất thuận tiện, tiết kiệm được thời gian và sức khỏe du khách” {B1.07}.
Tuy nhiên, đối với các hoạt động khác, ngay chính các cán bộ quản lý nhà nước về du lịch cũng chỉ ra rằng “ Hoạt động liên kết còn mang tính phong trào, chưa tạo ra sự chuyển biến sâu rộng” {A1.05} và “ chưa tác động đến nhiều đến sự phát triển của du lịch của địa phương”{A1.03}. Hầu hết người được phỏng vấn đều có chung nhận định “ Hoạt động liên kết chủ yếu nằm ở chủ trương” {A1.01} hay “ mới chỉ dừng ở việc tổ chức một vài sự kiện/ hoạt động chung” {A1.02}.
Các cán bộ quản lý du lịch của doanh nghiệp tỏ ra bi quan hơn khi cho rằng “ hoạt động liên kết hiện nay còn nặng về hình thức” {B1.03} và “hầu như không hỗ trọ gì cho doanh nghiệp” {B1.01}.
2.3.1.4. Thiếu cơ chế và hình thức liên kết
Các cán bộ quản lý nhà nước về du lịch của hai địa phương đều cho rằng, dù mong muốn đẩy mạnh hoạt động liên kết, nhưng hiện trạng hoạt động liên kết “ vẫn chưa có cơ chế rõ ràng và hiệu quả” {A1.01} hay “ cạn kiệt ý tưởng” {A1.03}
Cùng chung nhận định, các doanh nghiệp cho rằng hoạt động liên kết hiện nay “chỉ mang ý tự phát” {B1.03} “ thiếu chương trình tổng thể” {B1.07} và chủ yếu “dựa vào sự tự nguyện hay kêu gọi doanh nghiệp hỗ trợ” {B1.06}.
2.3.2. Đánh giá, nhận xét chung
2.3.2.1. Những mặt tích cực đã đạt được trong hoạt động liên kết
Nhìn chung du lịch hai địa phương trong thờigian qua phát triển và ngày càng khẳng định vị trí quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội. Các chỉ tiêu phát triển chủ yếu về lượng khách, thu nhập, GDP từ du lịch của hai địa phương tăng với tốc độ khá cao góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Có thể bạn quan tâm!
- Số Lượng Khách Quốc Tế Đến Hà Nội Giai Đoạn 2015 - 2019
- Đánh Giá Của Khách Du Lịch Nội Địa Về Các Dịch Vụ Trong Chương Trình Du Lịch Hà Nội - Luangprabang Từ Cao Đến Thấp (1-5)
- Nhận Xét, Đánh Giá Chung Các Hoạt Động Liên Kết Phát Triển Du Lịch Giữa Thành Phố Luangprabang Và Thành Phố Hà Nội.
- Chiến Lược Phát Triển Du Lịch Của Hai Đất Nước Lào Và Việt Nam Nói Chung Và Của Hai Thành Phố Hà Nội Và Luangprabang
- Giải Pháp Tăng Cường Liên Kết Phát Triển Du Lịch Luangprabang Và Hà Nội
- Giải Pháp Liên Lich Giao Thông Trong Phát Triển Du Lịch
Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.
Khách du lịch nội địa vẫn là thị trường khách chính đến hai địa phương,
chiếm khoảng 70% tổng lượng khách. Khách nội địa có sự tăng trưởng đều qua các năm, không chịu biến động nhiều như khách quốc tế đến vùng. Khách nội địa thường là khách đi theo nhóm do các công ty du lịch, lữ hành tổ chức hoặc do các nhóm tổ chức công đoàn của các cơ quan, xí nghiệp tổ chức hoặc tự tổ chức theo nhóm gia đình hoặc bạn bè đồng ngiệp.
Do có Thủ đô Hà Nội và thành phố Luangprabang đều là một trong những điểm thu hút khách lớn trong cả nước Việt Nam và Lào. Khách quốc tế đến với thành phố Hà Nội và thành phố Luangprabang tương đối cao so với mặt bằng trung của khách du lịch đến các tỉnh thành khác ở Việt Nam và Lào
- Tổng thu từ khách du lịch tăng trưởng với tốc độ tương đối cao. Năm 2019, Tổng thu từ khách du lịch Việt Nam đạt 726.000 tỉ đồng, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó tổng thu từ khách du lịch ở Hà Nội đạt khoảng 103.800 tỷ đồng, tăng 34% so với năm 2018. Trong khi đó, tổng doanh thu du lịch Lào năm 2019 đạt 777,531 triệu/USD, trong đó tổng doanh thu từ khách du lịch thành phố Luangprabang đạt 266,530,029 triệu/USD
- Bước đầu đã hình thành một số khu, điểm du lịch tương đối tiêu biểu, tạo động lực phát triển cho hai thành phố. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỷ thuật du lịch được quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng từ nguồn vốn ngân sách và xã hội hóa đã đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển du lịch các địa phương trong vùng để từng bước đáp ứng nhu cầu khách du lịch.
- Thị trường khách du lịch ngày càng được mở rộng, đặc biệt là thị trường khách du lịch quốc tế. Sản phẩm du lịch đang từng bước được hình thành, đa dạng và nâng cao chất lượng để khẳng định vị thế đối với du lịch cả hai nước và tạo tiền đề phát triển du lịch trong giai đoạn tiếp theo nhu: các điểm tham quan di tích lịch sử văn hóa, lễ hội, các cảnh quan thiên nhiên, các tuyến du lịch văn hóa tâm linh, khu du lịch sinh thái, khu du lịch nghỉ dưỡng, các dịch vụ lưu trú, nhà hàng, các làng nghề truyền thống.
- Công tác xúc tiến, quảng bá, hợp tác phát triển du lịch đạt được những thành tựu đáng khích lệ góp phần nâng cao hình ảnh tiềm năng và triển vọng phát triển du lịch của hai địa phương, thu hút được nhiều nhà đầu tư và lượng lớn khách
du lịch.
- Đã thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia các hoạt động kinh doanh du lịch và bước đầu tạo được sự chuyển biến tích cực trong hoạt động kinh doanh góp phần tích cực vào nỗ lực đưa hình ảnh vùng liên kết thân thiện, an toàn và mến khách đến với đồng bào và du khách; bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa truyền thống, bảo vệ tài nguyên du lịch, giải quyết công ăn việc làm và xóa đói giảm nghèo..
- Công thức quy hoạch tổng thể phát triển du lịch; quy hoạch cụ thể, khu du lịch và các dự án lớn đã được xây dựng, phê duyệt là định hướng cho công tác quản lý và thực hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh, quản lý tài nguyên du lịch.
- Công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch được quan tâm chú trọng. Hệ thống đào tạo nguồn nhân lực du lịch bước đầu được hình thành tại các địa phương… chương trình đào tạo nghề du lịch từng bước được hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch của các tỉnh trong vùng.
- Nhận thức về du lịch của các tầng lớp nhân dân có sự chuyển biến rõ rệt: lãnh đạo các địa phương, các cấp, các ngành ngày càng nhận thức đúng đắn hơn vai tr, vị trí của du lịch đối với đời sống xã hội, khẳng định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trong có tính chiến lược lâu dài góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của hai địa phương. Mức độ hiểu biết, ý thức của các tầng lớp nhân dân trong hoạt động du lịch, trong khai thác và bảo vệ tài nguyên được nâng lên.
2.3.2 . Tồn tại, hạn chế trong liên kết
- Các hoạt động liên kết du lịch của hai địa phương chủ yếu được thực hiện ở những thỏa thuận hợp tác giữa hai thành phố, các cơ quan quản lý du lịch của hai địa phương. Nội dung chủ yếu là gặp gỡ để trao đổi, hỗ trợ thông tin, cung cấp các hình ảnh về điểm đến du lịch, thiết lập liên kết qua trang web chính thức về du lịch với tỉnh bạn. Chủ yếu duy trì quan hệ, giới thiệu tiềm năng, chờ cơ hội hợp tác, theo kiểu mạnh ai nấy làm chưa thực sự phát huy được lợi thế chung giữa hai địa phương.
- Liên kết, hợp tác phát triển du lịch giữa hai địa phương còn nhiều hạn chế. Nhiều nội dung hợp tác chưa được thực hiện đầy đủ như việc liên kết xây dựng sản phẩm du lịch chung, đào tạo nguồn nhân lực du lịch,...
- Liên kết, hợp tác cũng chưa sáng tạo, bứt phá, còn lúng túng trong việc tìm ra phương pháp hình thức liên kết hiệu quả. Các hoạt động liên kết chủ yếu là tự phát, xuất phát từ nhu cầu hoạt động thực tế, chưa có tầm nhìn và chiến lược, khoa học. Hoạt động liên kết phát triển du lịch của hai địa phương mới chỉ dừng lại trong việc tổ chức một số sự kiện cụ thể, chưa có sự liên tục, thực sự hợp sức để cùng xây dựng sản phẩm du lịch, quảng bá thương hiệu,.. thu hút du khách đến với hai địa phương.
- Giữa hai địa phương chưa xây dựng được cơ chế ràng buộc, tính hiệu lực bắt buộc trong hoạt động liên kết một cách đầy đủ rõ ràng. Các doanh nghiẹp du lịch lữ hành trên địa bàn thụ động với hoạt động đưa khách du lịch đi du lịch trong tỉnh hoặc đưa khách du lịch là người Việt Nam và Lào đi du lịch nước khác mà chưa chú trọng đến khai thác khách du lịch đi hai thành phố Hà Nội - Luangprabang. Mặt khác, sự thiếu dịch vụ du lịch, nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và xu thế hội nhập.
- Sự liên kết giữa hai địa phương trên mới chỉ ở cấp độ song phương, chưa tổ chức được các hoạt động xúc tiến du lịch chung. Chưa có sự phối hợp trong việc xây dựng, ban hành và áp dụng các quy định về điểm du lịch dịch vụ đạt chuẩn dẫn đến sự thiếu đồng bộ về giá cả và chất lượng.
- Hiệu quả khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch còn chưa đồng nhất. Điều đó cho thấy sự thiếu cân đối trong cán cân cung cầu về du lịch, nên kết quả chưa cao.
- Chưa tạo được sản phẩm du lịch đặc thù, hấp dẫn để thu hút du khách. Việc tổ chức hoạt động xúc tiến điểm đến du lịch chưa có kế hoạch dài hạn. Doanh nghiệp du lịch ở các địa phương tham gia hoạt động xúc tiến chưa chuyên nghiệp, do thiếu vốn, thiếu cán bộ và do cơ chế chính sách chưa phù hợp. Công tác trao đổi thông tin giữa các chương trình chưa thường xuyên, triển khai còn nhiều bất cập.
- Thiếu đơn vị quản lý, điều hành đứng mãi chịu sào và làm công tác kích cầu. Liên kết phát triển du lịch của giữa hai địa phương vẫn chỉ theo kiểu tận thu những lợi thế sẵn có và mang tính thời vụ, chộp giật.
- Việc quản bá du lịch trong toàn vùng không có cùng một chủ đề, chủ điểm và hình ảnh thống nhất. Mỗi địa phương lại hoạt động riêng lẽ với nguồn lực hạn
chế, kinh nghiệm và phương pháp kém hấp dẫn. Việc liên kết giữa các địa phương thực ra chỉ là liên kết trong việc tổ chức sự kiện, chứ chưa thật sự liên kết để cùng phát triển sản phẩm du lịch.
- Chưa có sự phối hợp trong việc xây dựng, ban hành và áp dụng các quy định về điểm du lịch dịch vụ đạt chuẩn dẫn đến sự thiếu đồng bộ về giá cả và chất lượng; việc khai thác cùng một lúc các cơ sở lưu trú tại hai địa phương còn chưa hiệu quả, chưa tạo được sản phẩm du lịch đặc thù, hấp dẫn để thu hút khách du lịch. Nguồn nhân lực ở hai địa phương còn thiếu, yếu và chưa đồng đều.
- Doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong liên kết. Theo điều tra một số công ty du lịch trên địa bàn liên kết. Với tỷ lệ 91,2 công ty đánh giá hoạt động liên kết còn gặp khó khăn là một tỷ lệ rất lớn. Những khó khăn và mong muốn chủ yếu của họ là có cơ chế ràng buộc chặt chẽ hơn trong liên kết dịch vụ. Tránh tình trạng thích thì liên kết, gặp thời cơ thuận lợi lại bỏ liên kết dẫn đến khó khăn cho đối tác liên kết. Mặc dù, đó cũng là động lực thúc đẩy đối tác liên kết phải năng động, nhưng cũng là hạn chế khi có những biến động khách quan. Vì liên kết để cùng nhau phát triển nên cần có sự hỗ trợ nhau, tạo điều kiện tốt nhất cho nhau cùng phát triển. Không đáp ứng được yêu cầu dịch vụ liên kết cũng là một cản trở cho hoạt động liên kết của các công ty du lịch với các đơn vị cung ứng dịch vụ du lịch.
Tóm lại, hoạt động liên kết du lịch còn gặp nhiều khó khăn. Hiệu quả hoạt động liên kết chưa cao, sự gắn kết ràng buộc chưa chặt chẽ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó, sản phẩm du lịch đường bộ đi có dấu hiệu bão hòa, nhất là khách cao cấp, chất lượng phục vụ có phần giảm sút. Một số bất cập khác, đó là hệ thống đường sá chưa đồng bộ, nhiều đoạn xuống cấp; một số hạ tầng đặc biệt ở Bắc Lào chưa đảm bảo; thủ tục tại các cửa khẩu còn nhiều bất cập. Đặc biệt, ở các cửa khẩu không có khu vực đóng hộ chiếu riêng cho khách đoàn. Ngoài ra, chưa có sự phối hợp tích cực giữa các cơ quan quản lý du lịch và các cơ quan chức năng trong công tác quản lý và xúc tiến quảng bá du lịch. Mặc dù, có vai trò của các hiệp hội du lịch của hai nước Việt Nam - Lào, nhưng do tính chất chưa đồng bộ về dịch vụ, cũng như tư duy “ thời cơ, thời điểm” dẫn đến hiệu quả liên kết không bền vững và không hiệu quả.
Tiểu kết chương 2
Trong chương hai, luận văn đã khái quát được tình hình phát triển du lịch của Hà Nội, Luangprabang và những lợi thế của hai địa phương trong liên kết phát triển du lịch. Khẳng định đây là những thuận lợi, giúp hai địa phương có nhiều cơ hội thúc đẩy du lịch liên kết giữa hai nước Việt Nam - Lào nói chung và hai thành phố Hà Nội - Luangprabang nói riêng.
Đồng thời luận văn cũng làm rõ được thực trạng một số hoạt động liên kết giữa hai địa phương trong thời gian qua như: liên kết phát triễn chuỗi sản phẩm du lịch; liên kết xúc tiến, quảng bá; liên kết đào tạo, phát triển nhân lực; liên kết giao thông phục vụ du lịch. Nhìn chung, hoạt động liên kết phát triển du lịch đã đạt được một số kết quả như: sự nhận thức của ngưởi dân địa phương, người làm du lịch, nhà quản lý du lịch,.. được nâng lên; lượng khách du lịch tăng lên đáng kể; nhiều dự án được đầu tư; hạ tầng giao thông được thúc đẩy; quan tâm đến nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao; tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch trên nhiều phương diện; khảo sát những địa điểm du lịch mới để nghiên cứu nối tour, mở tour mới,..
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế cần được giải quyết như: sản phẩm đặc thù của từng tỉnh chưa được định hình, chưa có sản phẩm du lịch chung liên kết, hiệu quả chưa đồng bộ, sự kết nối tour còn đơn điệu, chưa đa dạng, sự gắn kết với các ngành liên quan dẫn đến tình trạng lệch pha nhau; xúc tiến, quảng bá du lịch vừa thiếu vừa không tập trung, tính định hướng, đầu mối thực hiện của cơ quan quản lý du lịch và các hiệp hội du lịch với các doanh nghiệp còn hời hợt, hình thức, chưa sát thực, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nói chung; liên kết giữa hai địa phương vẫn còn chưa đạt hiệu quả cao so với tiềm năng của phát triển của hai thành phố Hà Nội - Luangprabang; liên kết giữa các cơ sở trong mạng lưới đào tạo về du lịch chưa hiệu quả, thông tin về định hướng phát triển nhân lực du lịch đến các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp chưa thường xuyên; cơ sở đào tạo và doanh nghiệp tự tìm tòi là chính, nên không biết đầy đủ nhu cầu đào tạo và nhu cầu nhân lực (cả số lượng, chất lượng và cơ cấu), làm cho cung không gặp cầu; bên cạnh giao thông đường bộ, vì không có giao thông đường thủy và đường sắt kết nối hai thành phố Hà Nội và Luangprabang. Chính vì vậy giao thông đường hàng không có vai trò rất lớn
trong việc liên kết phát triển du lịch của hai thành phố.
Từ những phân tích, kết luận. Trong chương hai sẽ là cơ sở nghiên cứu những giải pháp khắc phục, để hoạt động liên kết phát triển du lịch của hai địa phương đạt kết quả tốt hơn trong thời gian tới - nội dung này được trình bày trong chương ba của luận văn.
Chương 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCHTHÀNH PHỐ LUANGPRABANG VÀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Căn cứ đề xuất giải pháp
3.1.1. Xu thế chung
Những xu thế có những động lực mạnh và có thể tác động tới những cơ hội sẵn của Hà Nội - Luangprabang và những rủi ro cần phải xử lý
Sự trỗi dậy của Trung Quốc: Theo tổ chức phân tích thông tin kinh tế (Economist Intelligent Unit) năm 2025 dự báo thì Trung Quốc sẽ trở thành một trong cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới trong thời gian sắp tới. Số lượng khách Trung Quốc đi du lịch nước ngoài hàng năm sẽ tăng xấp xỉ 47 triệu trong 5 năm tới, gấp 3 lần mức tăng của bất kỳ nước nào khác. Đây là thị trường khách du lịch lớn của hai địa phương Hà Nội và Luangprabang.
Tầng lớp trung lưu mới nổi: Phân khúc tầng lớp trung lưu sẽ tăng trưởng theo cấp số nhân trên toàn cầu, chủ yếu được dẫn dắt bởi sự tăng trưởng của Châu Á. Dự báo Châu Á sẽ có 66% số lượng người trung lưu trên toàn thế giới đến năm 2030. Hai địa phương cần xem xét sự phát triển mạnh mẽ của thị trường nội địa và thị trường các nước láng giềng khi xây dựng qui hoạch du lịch.
Mạng internet và kết nối di động: Internet và những thiết bị di động đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc cung cấp thông tin về du lịch và truy cập tại chỗ cho khách du lịch. Trong bối cảnh phát triển du lịch, công tác tăng cường sự hiện diện trực tuyến hình ảnh của Hà Nội - Luangprabang sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu.
Tăng trưởng trong du lịch sinh thái: Khách du lịch ngày càng quan tâm đến việc giảm thiểu ảnh hưởng của các hoạt động du lịch đến môi trường. Để đón đầu xu thế này, cần chủ động có biện pháp cải thiện điều kiện môi trương và mở rộng dịch vụ sinh thái so với mức hiện tài.
Tìm kiếm trải nghiệm chân thực: Khách du lịch ngày nay có nhu cầu ngày càng tăng về du lịch trải nghiệm chân thực. Các hoạt động trải nghiệm chân thực