của Bộ Giáo dục và Đào tạo còn nặng tính quan liêu bao cấp, vẫn còn tình trạng ôm đồm, sự vụ, làm hạn chế quyền chủ động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm của các đơn vị cơ sở. Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh. Việc tách rời quản lý nhà nước về chuyên môn với quản lý nhân sự, tài chính đã làm giảm tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân và làm cho bộ máy quản lý giáo dục trở nên cồng kềnh, nặng nề. Năng lực của các cơ quan quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ quản lý trong tình hình mới".
- Mặt khác, các quy định về phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục trong một số văn bản dưới luật không còn phù hợp với các quy định của Luật Giáo dục nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới như Nghị định số 166/2004/NĐ-CP ngày 16/9/2004 của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục đã bộc lộ nhiều bất cập nhưng đến cuối năm 2010 Chính phủ mới ban hành Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục để thay thế; Nghị định số 07/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ về Đại học Quốc gia; văn bản quy định giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học; về chuyển đổi loại hình trường... Điều này gây ra những nhận thức không đúng trong quá trình tổ chức thực hiện Luật Giáo dục trong đó có các quy định về hệ thống giáo dục quốc dân.
- Điều 49 Luật giáo dục quy định trường của cơ quan nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trường của lực lượng vũ trang nhân dân có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý nhà nước về nhiệm vụ và kiến thức quốc phòng an ninh. Luật giáo dục giao cho Chính phủ quy định cụ thể về trường của cơ quan nhà nước, của tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, trường của lực lượng vũ trang nhân dân nhưng đến thời điểm này, do có nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất giữa các Bộ, ngành và cơ quan liên quan trong quá trình soạn thảo nên đến cuối năm 2011 Chính phủ mới ban hành Nghị định số 125/2011/NĐ-CP quy định về trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân.
2.4.4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục năm 2009
Ngày 15 tháng 4 năm 2009, Bộ Chính trị có Thông báo số 242/TB/TW kết luận của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục đến năm 2020. Các quan điểm chỉ đạo quan trong này cần được thể chế thành các nội dung pháp luật. Ngày 19 tháng 6 năm 2009, Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 5 thông qua nghị quyết số 35/2009/NQ-QH12 về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014- 2015, một số nội dung của Nghị quyết cần được thể chế trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của luật giáo dục được thực hiện theo các quan điểm chỉ đạo và nguyên tắc sau:
- Đường lối, quan điểm của Đảng và các chủ trương chính sách về giáo dục phải được quán triệt trong quá trình sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục. Đặc biệt là các quan điểm về giáo dục đã dược xác định trong Nghị quyết Trung ương 2 khóa X, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và thông báo số 242 - TB/TW ngày 15 tháng 4 năm 2009 kết luận của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị Quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục đến năm 2020.
- Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục phải xuất phát từ
những đòi hỏi khách quan, lựa chọn những nội dung thực sự cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề thực sự bức xúc trong thực tiễn, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức và hoạt động giáo dục và trong công tác quản lý giáo dục, góp phần đổi mới giáo dục và thực hiện "phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu".
Có thể bạn quan tâm!
- Việc Xây Dựng Hệ Thống Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Về Giáo Dục
- Lịch sử pháp luật về giáo dục ở Việt Nam từ 1945 đến nay - 8
- Lịch sử pháp luật về giáo dục ở Việt Nam từ 1945 đến nay - 9
- Thực Tiễn Giáo Dục Và Chiến Lược Phát Triển Giáo Dục Đến Năm 2020.
- Mục Tiêu Của Chiến Lược Phát Triển Giáo Dục Đến Năm 2020
- Kinh Nghiệm Xây Dựng Pháp Luật Về Giáo Dục Ở Một Số Nước
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
- Các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục phải phù hợp, thống nhất, đồng bộ với quy định của hiến pháp, các bộ luật về luật hiện hành; phù hợp với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc là thành viên.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đã bổ sung 5 điều mới, sửa đổi, bổ sung liên quan đến 24 điều (trên tổng số 120 điều) của Luật giáo dục.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục có tác động sâu sắc tới việc nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động giáo dục góp phần đổi mới giáo dục và tạo hành lang pháp lý căn bản của việc đẩy mạnh đổi mới quản lý để nâng cao chất lượng giáo dục, cụ thể.
- Khẳng định tính ưu việt của chế độ cũng như thành tựu quốc gia trong việc giáo dục và chăm sóc trẻ em, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư có hiệu quả và nâng cao chất lượng giáo dục mầm non nói chung và trẻ em 5 tuổi nói riêng, đặc biệt ở vùng miền núi và các vùng kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn.
- Nâng cao chất lượng giáo dục mạnh mẽ qua việc hoàn thành quản lý nhà nước về biên soạn và bảo đảm chất lượng của sách giáo khoa, bảo đảm có sách giáo khoa dùng để giảng dạy kể cả trong trường chuyên biệt cho phù hợp với người học tại các trường năng khiếu, trường giáo dưỡng, trường dành cho người tàn tật, khuyết tật, trường dự bị đại học qua việc bảo đảm phải có đủ
giáo trình giảng dạy, học tập trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, qua việc công khai, minh bạch hóa hoạt động đào tạo, việc thực hiện mục tiêu, chương trình giáo dục, nguồn lực và tài chính, kết quả đánh giá chất lượng giáo dục, hình thành sự giám sát thực sự của các cơ quan nhà nước, đội ngũ giáo viên, người học, các đoàn thể và xã hội; qua việc công khai minh bạch hóa hoạt động đào tạo, việc thực hiện mục tiêu, chương trình giáo dục, nguồn lực và tài chính, kết quả đánh giá chất lượng giáo dục, hình thành sự giám sát thực sự của các cơ quan nhà nước, đội ngũ giáo viên, người học, các đoàn thể và xã hội, qua việc quản lý chặt chẽ, hiệu quả hơn việc hình thành và hoạt động của các cơ sở giáo dục, qua việc tạo điều kiện đòi hỏi các cơ sở giáo dục việc hình thành hệ thống các cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục và xác định rõ nội dung quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục; qua việc làm rõ hơn yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các cơ sở giáo dục có sự tham gia của chủ đầu tư nước ngoài.
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục qua việc phân công, phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục hợp lý hơn trong chính phủ; giữa các bộ, ngành và các địa phương, qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư thành lập cơ sở giáo dục theo hướng xã hội hóa, huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục và đào tạo, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân, các thành phần kinh tế tích cực tham gia các hoạt động phát triển giáo dục. Đồng thời khắc phục tình trạng cơ sở giáo dục hoạt động giáo dục mà không đủ điều kiện về đội ngũ nhà giáo, về cơ sở vật chất, trang thiết bị và tuyển sinh.
2.4.5. Luật giáo dục đại học
Sau 25 năm đổi mới của đất nước và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, giáo dục đại học nước ta đã từng bước phát triển về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo; cung cấp nguồn
lao động chủ yếu có trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, giáo dục đại học cũng còn hạn chế: Phương pháp quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học chậm được thay đổi, chưa bảo đảm yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo của toàn hệ thống, chưa phát huy mạnh mẽ được sự sáng tạo của đội ngũ nhà giáo, các nhà quản lý và người học.
Luật giáo dục là luật khung, quy định một số vấn đề chung của giáo dục đại học. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về giáo dục đại học còn phân tán, hiệu lực pháp lý không cao.
Nhiều vấn đề quan trọng của giáo dục đại học được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành, cần được điều chỉnh bằng một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn, nâng các quy định còn phân tán trong các văn bản dưới luật thành quy định của Luật giáo dục đại học.
Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với hệ thống giáo dục đại học trong khu vực và trên thế giới, việc ban hành Luật giáo dục đại học là cần thiết để điều chỉnh các hoạt động giáo dục đại học phù hợp với các cam kết quốc tế, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, quản lý tốt hơn hoạt động hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đại học.
Việc ban hành Luật giáo dục đại học nhằm: tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học và đổi mới quản lý của cơ sở giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, góp phần đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học; đẩy mạnh phân cấp quản lý giáo dục đại học và thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục
đại học phù hợp với năng lực quản lý, năng lực tổ chức hoạt động giáo dục và trách nhiệm xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học, huy động các nguồn đầu tư phát triển giáo dục đại học.
Để đạt được mục đích trên đòi hỏi Luật giáo dục đại học phải được soạn thảo trên nguyên tắc:
- Luật giáo dục đại học thể chế hoá đường lối và các quan điểm cơ bản của Đảng, huy động sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của xã hội đối với việc xây dựng Luật giáo dục đại học và nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
- Luật giáo dục đại học phải phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Luật giáo dục đại học là một chế định pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội đặc thù trong lĩnh vực giáo dục, vì thế Luật giáo dục đại học đồng bộ với Luật giáo dục, góp phần hoàn thiện pháp luật về giáo dục trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Luật giáo dục đại học quy định chi tiết những nội dung về giáo dục đại học mà Luật giáo dục đã quy định nhưng còn mang tính chất là luật khung.
Những quy định trong Luật giáo dục liên quan đến giáo dục đại học còn mang tính khái quát, thì được cụ thể hóa. Những quy định trong Luật giáo dục đã cụ thể thì được dẫn chiếu trong Luật giáo dục đại học nếu thực sự cần thiết.
Một số quy định của Luật giáo dục liên quan đến giáo dục đại học được bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tiễn giáo dục đại học Việt Nam và xu thế phát triển của giáo dục đại học trên thế giới.
Giáo dục đại học được đặt trong hệ thống giáo dục quốc dân, thực hiện các quy định của Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học.
- Luật giáo dục đại học được xây dựng dựa trên quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển, góp phần giải quyết những vấn đề bức xức mà thực tiễn giáo dục đại học đang đặt ra và thực hiện những mục
tiêu chiến lược của giáo dục đại học và của hệ thống giáo dục quốc dân.
Trên cơ sở sự cần thiết, mục đích, nguyên tắc soạn thảo Luật trên, Luật giáo dục đại học đã được quốc hội thông qua ngày 18/06/2012 bao gồm 12 chương, 73 điều. Cụ thể như sau:
Chương I. Những quy định chung, gồm 13 điều (từ Điều 1 đến Điều
13) quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; áp dụng Luật giáo dục đại học; giải thích từ ngữ; mục tiêu của giáo dục đại học; trình độ và hình thức đào tạo của giáo dục đại học; cơ sở giáo dục đại học; đại học quốc gia; phân tầng cơ sở giáo dục đại học; ngôn ngữ dùng trong cơ sở giáo dục đại học; quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học; tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, đoàn thể và tổ chức xã hội trong cơ sở giáo dục đại học.
Chương II. Tổ chức cơ sở giáo dục đại học, gồm 14 điều (từ Điều 14 đến Điều 27) quy định về cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo dục đại học (cơ cấu tổ chức của trường cao đẳng, trường đại học, học viện; cơ cấu tổ chức của đại học; hội đồng trường; hội đồng quản trị; hội đồng đại học; hội đồng khoa học và đào tạo; hiệu trưởng; phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học); thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học; cho phép, đình chỉ hoạt động đào tạo (điều kiện thành lập hoặc cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học; điều kiện để được cho phép hoạt động đào tạo; sáp nhập, chia, tách cơ sở giáo dục đại học; đình chỉ hoạt động đào tạo của cơ sở giáo dục đại học; giải thể cơ sở giáo dục đại học; thủ tục và thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập, cho phép hoạt động đào tạo, đình chỉ hoạt động đào tạo; sáp nhập, chia tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học).
Chương III. Nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học, gồm 5 điều (từ Điều 28 đến Điều 32) quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của trường cao đẳng, trường đại học, học viện; nhiệm vụ và quyền hạn của đại học;
nhiệm vụ và quyền hạn của viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài; quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học.
Chương IV. Hoạt động đào tạo, gồm 6 điều (từ Điều 33 đến Điều 38) quy định về mở ngành, chuyên ngành đào tạo; chỉ tiêu tuyển sinh và tổ chức tuyển sinh; chương trình, giáo trình giáo dục đại học; tổ chức và quản lý đào tạo; văn bằng giáo dục đại học.
Chương V. Hoạt động khoa học và công nghệ, gồm 4 điều (từ Điều 39 đến Điều 42) quy định về mục tiêu hoạt động khoa học và công nghệ; nội dung hoạt động khoa học và công nghệ; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học trong hoạt động khoa học và công nghệ; trách nhiệm của nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ.
Chương VI. Hoạt động hợp tác quốc tế, gồm 6 điều (từ Điều 43 đến Điều 48) quy định về mục tiêu hoạt động hợp tác quốc tế; các hình thức hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học; liên kết đào tạo với nước ngoài; văn phòng đại diện; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học trong hợp tác quốc tế; trách nhiệm của nhà nước về hợp tác quốc tế.
Chương VII. Bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học, gồm 5 điều (từ Điều 49 đến Điều 53) quy định về mục tiêu, nguyên tắc và đối tượng kiểm định chất lượng giáo dục đại học; trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục đại học; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học về kiểm định chất lượng giáo dục đại học; tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; sử dụng kết quả kiểm định chất lượng giáo dục đại học.
Chương VIII. Giảng viên, gồm 5 điều (từ Điều 54 đến Điều 58) quy định về giảng viên; nhiệm vụ và quyền của giảng viên; chính sách đối với giảng viên; giảng viên thỉnh giảng và báo cáo viên; các hành vi giảng viên