Nâng Cao Vai Trò Lao Động Nữ Nông Thôn Không Chỉ Là Sự Nghiệp Của Riêng Phụ Nữ


con người phải được hoàn thiện mọi mặt, được đặt vào vị trí trung tâm. Mọi chiến lược phát triển đều phải hướng vào con người, vì con người là tài sản quý báu của quốc gia.

Đây là mối quan hệ biện chứng. Muốn phát triển, phải dựa vào con người. Mặt khác, đích cuối cùng của chiến lược phát triển là vì con người, phục vụ con người, tạo ra sự phát triển và mức sống vật chất, tinh thần phong phú và văn minh hơn. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được nếu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp và gắn liền với sự phát triển con người, kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Thực hiện đồng bộ điều đó, con người mới phát huy được mọi mặt, khơi dậy sức sáng tạo và tiềm năng, thể hiện đầy đủ vai trò quyết định của mình đối với xã hội và lịch sử nhân loại. Như vậy, con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quá trình phát triển xã hội và là sản phẩm của xã hội, thể hiện trình độ phát triển của xã hội.

Phát triển con người cần chú trọng đến phát triển phụ nữ. Bởi vì, như chúng ta đã thấy, phụ nữ có vai trò rất to lớn trong sự phát triển xã hội, trước hết là trong các hoạt động sản xuất và tái sản xuất. Do vậy, một khi phụ nữ được phát triển thì chính là xã hội cũng phát triển và ngược lại nếu xã hội ít quan tâm đến phát triển phụ nữ thì xã hội cũng sẽ chậm phát triển. Đây là mối quan hệ biện chứng về giới và phát triển.

3.2.2 Nâng cao vai trò lao động nữ nông thôn không chỉ là sự nghiệp của riêng phụ nữ

Gia đình, cộng đồng và xã hội cần tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển, không chỉ là sự tham gia ngày càng nhiều của nữ giới trong các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội để họ đạt được bình đẳng như nam giới trong quá trình phát triển và không còn phải lệ thuộc vào nam giới, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ có cơ hội học hỏi, nâng cao hiểu biết về văn hoá-xã hội và luật pháp, không còn


sự mặc cảm, tự ty trước nam giới trong đời sống xã hội. Muốn vậy, cần chuyển từ nhận thức sang hành động việc coi vai trò tái sinh sản (cả về con người sinh học và con người xã hội) do người phụ nữ đang gánh vác không còn là vấn đề riêng tư của mỗi cá nhân mà phải xem đó là một nhiệm vụ xã hội hết sức quan trọng, chỉ có được quan niệm và hành động như vậy mới đánh giá đúng vai trò và sự cống hiến của người phụ nữ trong quá trình phát triển của xã hội và từ đó mới có thể tạo điều kiện cho người phụ nữ phát triển thực sự. Những điều mà Ph. Ăng ghen đã viết cách đây hơn một thế kỷ vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự: “Sự giải phóng phụ nữ, địa vị bình đẳng của người phụ nữ với nam giới là không thể có được và mãi mãi không thể có được chừng nào mà người phụ nữ vẫn còn bị gạt ra ngoài lao động xã hội có tính chất sản xuất và còn phải khuôn mình trong lao động tư nhân của gia đình. Chỉ có thể giải phóng được người phụ nữ khi người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một quy mô xã hội rộng lớn và chỉ phải làm công việc trong nhà rất ít. Nhưng chỉ có với nền đại công nghiệp hiện đại, là nền công nghiệp không những thu nhận lao động của phụ nữ trên quy mô lớn, mà còn trực tiếp đòi hỏi phải có lao động phụ nữ và ngày càng có xu hướng biến lao động tư nhân của gia đình thành một ngành công nghiệp công cộng thì mới có thể thực hiện được điều nói trên” [34, tr. 248]. Trong điều kiện như vậy, người phụ nữ mới được phát triển theo đúng nghĩa của thuật ngữ này, theo đó mọi người phải được tự do thực hiện những lựa chọn và tham gia vào các quá trình ra quyết định ảnh hưởng đến đời sống của mình.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra: lao động ở nước ta đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp, tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo lại càng thấp, nhất là phụ nữ ở các vùng nông thôn. Vì thế, chính sách đào tạo nghề, đào tạo chuyên môn - kỹ thuật cho người lao động cần ưu tiên phụ nữ. Ưu tiên đào tạo lao động nữ chính là nhằm đạt được mục tiêu phổ cập về chuyên môn đối với người lao động, đồng thời tạo cơ hội cho việc hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Theo chúng tôi, với phụ nữ ở các vùng nông thôn, bên cạnh việc trang bị kiến thức để cho họ trở thành những phụ nữ nông dân của nền nông nghiệp hiện đại, có khả năng tiếp cận thị trường; ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật như áp dụng IPM, gieo sạ bằng máy thẳng hàng, bón phân theo bảng so màu lá lúa,... vừa tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi vừa bảo đảm an toàn lương thực và bảo vệ môi trường sinh thái, thì cần chú ý đào tạo chuyên môn cho phụ nữ để phát triển các ngành, nghề truyền thống, lĩnh vực mà phụ nữ có nhiều phẩm chất thuận lợi hơn nam giới trong sản xuất ở lĩnh vực này. Mặt khác, kiến thức về quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần ưu tiên đào tạo phụ nữ, vì họ là lực lượng quan trọng trong quản lý kinh tế hộ, quản lý các cơ sở sản xuất quy mô vừa và nhỏ.‌

Để xây dựng giai cấp nông dân, trong đó phụ nữ chiếm số đông, ngang tầm công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là chủ thể của nền nông nghiệp mới, bên cạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, cần triển khai phát triển mạnh mẽ hơn việc dạy nghề sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển các làng nghề truyền thống và thương mại - dịch vụ, ưu tiên các nghề liên quan đến công nghiệp chế biến nông sản. Để làm được điều này, nhà nước cần có những chính sách riêng về đào tạo nghề cho nông dân nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống dạy nghề để lao động nông nghiệp được đào tạo nghề và trở thành lực lượng hùng hậu có tri thức khoa học, kỹ năng sản xuất tiên tiến trong nông nghiệp, nông thôn thời kỳ đổi mới. Làm được những điều đó, chính là tạo nên đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật, chuyên môn và tay nghề cao ở các vùng nông thôn; vì vậy sẽ tạo nên những sản phẩm kinh tế có gía trị cao do sự khác biệt giữa lao động phức tạp và lao động giản đơn, như C.Mác đã từng chỉ ra: “lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn”. Cùng sản xuất một loại sản phẩm như lao động phức tạp có hàm

Lao động nữ ở nông thôn Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 14


lượng chất xám cao sẽ tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế hơn rất nhiều so với sản phẩm của lao động giản đơn.


3.3 Các giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của lao động nữ nông thôn trong thời gian tới

3.3.1 Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cho lao động nữ

* Về học vấn và chuyên môn kỹ thuật

Khu vực nông thôn thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao, có trình độ, hiểu biết, kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn cần thiết phục vụ sản xuất kinh doanh. Những quy định, chính sách của nhà nước chưa được phổ biến và giải thích đủ rõ và đủ sâu cho dân cư nông thôn để họ có thể quyết định các vấn đề liên quan tới tổ chức kinh doanh và sản xuất kinh doanh. Nhiều luật pháp và pháp lệnh quan trọng có ảnh hưởng lớn tới tổ chức và vận hành các hoạt động kinh doanh như Luật Lao động, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty, Pháp lệnh về kế toán,... vẫn chưa được nhiều người biết tới và hiểu rõ. Các thủ tục liên quan tới việc tổ chức kinh doanh cũng trong tình trạng tương tự. Tình trạng người có tay nghề, có khả năng kinh doanh bỏ nông thôn ra thành thị vẫn tiếp tục diễn ra. Một số địa phương đã tìm cách khắc phục tình trạng này bằng cách tạo các điều kiện thuận lợi về thủ tục kinh doanh, về địa điểm để thu hút các nhà kinh doanh ở các đô thị chuyển về nông thôn và đã thu được một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên nếu xét về mặt kinh tế thì trên mặt bằng chung hiện nay, những ưu tiên dành cho các doanh nghiệp khi họ chuyển về nông thôn là chưa đủ sức hấp dẫn.

Một ước tính không chính thức đưa ra tỷ lệ cán bộ làm công tác khuyến nông trên hộ nông dân là 1:50.000 hộ. Từ trước tới nay các cán bộ khuyến nông mà 25% trong số họ là phụ nữ đã được khuyến khích để vận động nông dân thực hiện những mục tiêu sản xuất do Trung ương định ra. Thực tế, nếu cán bộ khuyến nông mong muốn xuống xã gặp nông dân thì họ gặp khó khăn do không


có trợ cấp, thiếu phương tiện đi lại. Dịch vụ khuyến nông đặc biệt yếu trong việc đáp ứng những nhu cầu thông tin của phụ nữ, các nhóm bị thiệt thòi, đặc biệt ở những nơi xa xôi hẻo lánh và các dân tộc thiểu số.

Để cải thiện việc tiếp cận và liên quan tới dịch vụ khuyến nông đối với phụ nữ, theo chúng tôi cần chú ý:

- Đào tạo vấn đề giới cho cán bộ trong các cơ quan nhà nước và tổ chức nhân dân. Cần phát triển các công cụ và hướng dẫn trong công tác kế hoạch hoá có tính nhạy cảm về vấn đề giới.

- Xây dựng khả năng của các nhóm cộng đồng và những nhà lãnh đạo là phụ nữ trong việc tham gia vào các hoạt động xây dựng kế hoạch, trong việc quản lý các chương trình cộng đồng và trong việc tiếp thị các sản phẩm nông nghiệp.

- Cũng cần khuyến khích thiết lập những mạng lưới để sao cho những người nông dân, nhóm nông dân tổ chức của nhân dân và các hợp tác xã có thể đối thoại và học hỏi lẫn nhau. Đặc biệt cần phải quan tâm đào tạo về quản lý các nguồn lực cho nữ giới cũng như các nhóm cộng đồng và làng xã.

- Tăng cường sự tham gia của nữ nông dân vào đào tạo khuyến nông, đặc biệt là trong chăn nuôi, định ra chỉ tiêu về sự tham gia của phụ nữ trong các chương trình đào tạo thường kỳ, xây dựng các chương trình đào tạo thêm đặc biệt là cho nữ nông dân. Cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ cho các học viên để hạn chế những cản trở đối với sự tham gia của phụ nữ

- Tăng cường sự tham gia của các em gái và phụ nữ vào đào tạo hướng nghiệp nông nghiệp.

- Tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ với cơ hội việc làm phi nông nghiệp thông qua việc coi họ là đối tượng để phổ biến thông tin về luật doanh nghiệp mới, đào tạo kỹ năng phát triển kinh doanh và đào tạo nghề, tiếp cận với vốn vay chính thức với mức vốn cao hơn.


- Tăng cường việc đa dạng hoá các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp của phụ nữ nhằm đưa ra các hàng hoá có giá trị cao hơn như cây ăn quả, nấm, cá, gia cầm và các mặt hàng được được chế biến. Cung cấp những hỗ trợ cần thiết về tín dụng, phân tích thị trường và đào tạo cho các hoạt động đó.

- Tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ với các công nghệ nông nghiệp phù hợp với cấp hộ gia đình gồm công nghệ sau thu hoạch và chế biến lương thực

- Tăng cường công luận về vai trò của phụ nữ trong nông nghiệp thông qua các trường học, chính quyền địa phương và các tổ chức quần chúng.

* Về sức khoẻ

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sức khoẻ phụ nữ hiện nay đáng lo ngại, nhất là ở khu vực nông thôn, dịch vụ y tế còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và đội ngũ nhân lực: “Đến năm 1999, cả nước có 3545 xã có bác sĩ (trong tổng số 10469 xã) đạt khoảng 33,9% nhưng các tỉnh miền núi mới chỉ đạt 22,2%. Những xã có bác sĩ làm việc cần bổ sung trang thiết bị và dụng cụ y tế, tăng cường thuốc thiết yếu để đáp ứng kỹ thuật cao hơn về phòng bệnh và chữa bệnh” [60]

Sức khoẻ rất quan trọng đối với người phụ nữ không chỉ vì nó cần cho các hoạt động sản xuất, mà nó còn quan trọng, cần thiết cho việc thực hiện các vai trò khác của giới như: vai trò sinh sản và nuôi dưỡng, vai trò cộng đồng... Sức khoẻ yếu kém sẽ không đảm bảo cho việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất mà công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi, đó là chưa kể việc sẽ khó khăn trong việc xây dựng một cuộc sống bền vững và một gia đình hạnh phúc nếu người phụ nữ luôn đau ốm.

Chú ý đến nâng cao sức khoẻ cho phụ nữ nói chung và phụ nữ ở các vùng nông thôn nói riêng, cần tập trung vào sức khoẻ sinh sản của phụ nữ. Thực hiện chức năng sinh sản, người phụ nữ hiện đang đương đầu với những gánh nặng về dân số - kế hoạch hoá gia đình do quan niệm của nam giới và thiếu sự chia sẻ của họ trong vấn đề này. Bên cạnh đó, điều kiện và chất lượng dịch vụ về dân số - kế


hoạch hoá gia đình chưa đáp ứng tốt, dẫn đến những lo ngại về sức khoẻ của phụ nữ khi tỷ lệ nạo, hút thai cao, số lần mang thai và sinh nở nhiều. Số liệu cho thấy 5 tai biến sản khoa (băng huyết, nhiễm trùng hậu sản, sản giật, uốn ván và vỡ tử cung) là những nguyên nhân chính dẫn đến tử vong mẹ. Và phần lớn những nguyên nhân tử vong này sẽ tránh được nếu phụ nữ đi khám thai đầy đủ và sinh đẻ tại các cơ sở y tế. Vì thế, quan tâm đến chất lượng dân số trong phát triển không thể coi nhẹ vấn đề sức khoẻ sinh sản và quyền sinh sản của phụ nữ ở nông thôn. Cần nâng cao chất lượng dịch vụ sức khoẻ cộng đồng, nâng cao trách nhiệm của nam giới và sự chia sẻ của họ trọng lĩnh vực sức khoẻ sinh sản nói riêng và chăm sóc sức khoẻ nói chung. Bên cạnh đó, cần chú ý cải thiện môi trường lao động và sinh hoạt. Người phụ nữ ở nông thôn với gánh nặng của công việc sản xuất và gia đình, cùng với điều kiện sống chưa đầy đủ lại phải đương diện với vấn đề ô nhiễm môi trường, càng làm tăng thêm nguy cơ về sức khoẻ. Theo chúng tôi, bên cạnh những chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nhằm nâng cao mức sống người dân, cần chú trọng đến công tác giữ gìn, bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chú ý đến sự phát triển con người trong quá trình phát triển bền vững, đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục người dân nâng cao ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường sản xuất và sinh hoạt, trong lĩnh vực này, phụ nữ lại là lực lượng chủ đạo.

Chúng tôi tán đồng với ý tưởng của các nhà khoa học y tế về việc thành lập Vụ sức khoẻ nông thôn để chăm lo sức khoẻ cho người dân. Với tên gọi này, Vụ sẽ có nhiều khả năng phối hợp với các ngành khác trong việc giải quyết các vấn đề sức khoẻ cho người dân ở nông thôn. Bởi vì gần 80% người dân Việt Nam sinh sống ở nông thôn và khoảng 90% người nghèo sống ở nông thôn, việc thành lập Vụ sức khoẻ nông thôn sẽ thúc đẩy quá trình nâng cao và phát triển sức khoẻ cho


cư dân ở khu vực nông thôn và đem lại cân bằng trong chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo trong đó đa số là phụ nữ.

3.3.2 Nhóm giải pháp phát huy năng lực của lao động nữ

Để phát huy tốt năng lực của lao động nữ nông thôn cần có những chính sách kinh tế - xã hội nông thôn phù hợp, tạo điều kiện khơi dậy được những tiềm năng, phẩm chất quý giá của phụ nữ.

Chính sách xã hội nông thôn không phải là một chính sách xã hội thuần nhất mà là một tập hợp các chính sách nhằm giải quyết các vấn đề rất phức tạp ở nông thôn. Nó chỉ được giải quyết một cách triệt để khi nó kết hợp thực hiện đồng bộ một cách hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nông thôn theo mục tiêu xây dựng một nông thôn mới, thực sự dân chủ, công bằng, làm cho mọi người ở nông thôn có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định, bảo đảm đời sống bền vững và thực hiện một xã hội nông thôn văn minh hiện đại. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, các chính sách xã hội ở vùng nông thôn càng có ý nghĩa quan trọng để góp phần xoá bỏ sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư ở nông thôn và tạo điều kiện cho phụ nữ nông thôn phát triển.

Những chính sách xã hội nông thôn như: chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách lao động-việc làm, chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, chính sách ruộng đất, chính sách tín dụng, chính sách đào tạo và chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ vi sinh vào nông thôn... có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của phụ nữ. Trong phần này chúng tôi chỉ đề cập đến 2 trong nhiều chính sách kinh tế - xã hội nói trên.

Chính sách về quyền sử dụng đất của phụ nữ nông thôn

Điều 18 Hiến pháp 1992 quy định: Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng cố định lâu dài và người dân được quyền chuyển sử dụng đất theo quy

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 26/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí