Khái Niệm, Đặc Điểm Của Thị Trường Và Doanh Nghiệp

a. Hãy biểu diễn trên đồ thị các đường đồng lượng Q1 = 383 và Q2 = 645. Tính tỷ lệ thay thế biên kỹ thuật của lao động cho vốn ứng với các điểm trên đường đồng lượng Q2.

b. Giả sử nếu lượng vốn cố định K = 4. Hãy tính năng suất trung bình và năng suất cận biên trong tưòng hợp này.

Bài 3. Có quan hệ giữa sản lượng sản xuất với tổng chi phí của một doanh nghiệp như sau:


Sản lượng

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Tổng Chi

phí (USD)

12

27

40

51

60

70

80

91

104

120

140

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.

Kinh tế học vi mô - ĐH SPKT Nam Định - 17

a. Hãy xác định chi phí cố định, chi phí biến đổi, chi phí trung bình, và chi phí cận biên ứng với mỗi mức sản lượng.

b. Hãy biểu diễn trên đồ thị các đường chi phí biến đổi, chi phí trung bình, và chi phí cận biên. Anh/ chị có nhận xét gì về các đường biểu diễn trên.

Bài 4. Một hãng biết được hàm cầu về sản phẩm của mình là P = 100 – 0,01Q. Hàm tổng chi phí của hãng là TC = 50Q + 30000.

a. Viết phương trình biểu diễn đường tổng doanh thu, doanh thu cận biên và chi phí cận biên.

b. Xác định sản lượng tối đa hóa lợi nhuận.

c. Khi nào thì doanh thu của hãng là tối đa?

Bài 5. Một hãng có chi phí biến đổi bình quân là AVC = Q + 4. Chi phí cố định của hãng là 50.

a. Viết phương trình biểu thị các đường VC, TC, MC, ATC, AFC.

b. Xác định chi phí bình quân tối thiểu.

Bài 6. Một hãng sản xuất với tổng chi phí bình quân ($) ATC = 300 + 97500/Q và có đường cầu P = 1100 – Q, P tính bằng $, Q là số sản phẩm.

a. Quyết định của hãng để tối đa hóa lợi nhuận? Tính lợi nhuận đó?

b. Hãng đặt mức giá nào để tối đa hóa doanh thu?

c. Hãng đặt mức giá nào để bán được nhiều sản phẩm nhất mà không bị lỗ?

Bài 7. Trong ngắn hạn có tổng chi phí cố định là 45.106$. Chi phí biến đổi bình quân ngắn hạn theo sản lượng được cho như sau:


Sản lượng Q (tấn/ tuần)

1

2

3

4

5

6

AVC (triệu đồng)

17

15

14

15

19

29

a. Hãy tính chi phí cố định bình quân, chi phí bình quân, tổng chi phí và chi phí cận biên.

b. Hãy vẽ các đường AVC, AC, MC trên một đồ thị.

Bài 8. Một nhà sản xuất đầu tư số tiền là 2000 USD để thuê 2 yếu tố sản xuất K và L, với đơn giá PK= 100 USD, PL = 50 USD. Hàm sản xuất của doanh nghiệp được cho như sau: Q = 2KL.

a. Xác định mức phối hợp tối ưu các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp.

b. Nếu doanh nghiệp sản xuất 300 sản phẩm, tìm mức phối hợp tối ưu các yếu tố đầu vào để tổng chi phí sản xuất là thấp nhất.

CHƯƠNG 5

CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM


5.1. THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH HOÀN HẢO

5.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thị trường và doanh nghiệp

5.1.1.1. Khái niệm

Trước tiên, chúng ta nên tìm hiểu các nhà kinh tế định nghĩa về thị trường cạnh tranh hoàn hảo như thế nào để từ đó sẽ phát triển lý thuyết liên quan đến các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường này.

Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường trong đó có nhiều người mua và nhiều người bán nhưng mọi người đều cho rằng các quyết định mua bán của họ không ảnh hưởng đến giá cả thị trường.

Ví dụ: Thị trường sữa

Không người mua sữa nào tác động tới giá sữa, vì mỗi người chỉ mua 1 lượng nhỏ so với quy mô thị trường. Tương tự, mỗi người bán sữa chỉ có khả năng kiểm soát hạn chế đối với giá sữa, vì những người bán khác cũng cung ứng sữa, thứ mà về cơ bản giống hệt nhau. Vì mỗi người bán có thể bán toàn bộ lượng hàng mong muốn với mức giá hiện hành, nên hầu như chẳng có lý do gì để anh ta giảm giá; còn nếu anh ta tăng giá, người mua sẽ đi chỗ khác mua.

5.1.1.2. Đặc điểm

Từ khái niệm, ta nhận thấy đặc điểm quan trọng của thị trường cạnh tranh hoàn hảo là số lượng sản phẩm mà mỗi doanh nghiệp cung ứng không ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường. Một doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo hoạt động như thể giá thị trường không phụ thuộc vào số lượng bán ra của doanh nghiệp và do vậy, doanh nghiệp được gọi là người chấp nhận giá.

Do vậy, lượng cầu và cung của một chủ thể nhất định không ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường. Đường cầu đối với hàng hóa của mỗi doanh nghiệp sẽ là một đường nằm ngang do bất kể lượng cung của họ là bao nhiêu thì họ cũng nhận được một mức giá cố định.

Hình 5.1 mô tả sự chấp nhận giá của một doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Đầu tiên, giá hàng hóa trên một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, P0, được hình thành do quan hệ cung - cầu trên thị trường. Doanh nghiệp cạnh tranh là người chấp nhận giá nên họ sẽ bán sản phẩm của mình ra ở đúng mức giá P0 đó. Dù số lượng doanh nghiệp bán ra là bao nhiêu, họ cũng nhận được mức giá P0 cho sản phẩm mà họ bán ra. Do vậy, đường cầu của doanh nghiệp là đường thẳng nằm ngang ở mức giá P0. Đó là đường d.

Bởi vì doanh nghiệp không thể quyết định giá nên nó cũng không có ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp khác trong ngành. Định nghĩa của các nhà kinh tế về thị trường cạnh tranh hoàn hảo có vẻ trái với ý nghĩa của từ cạnh tranh trong đời sống hàng ngày. Các nhà kinh tế ngụ ý rằng mỗi doanh nghiệp hay người tiêu dùng riêng lẻ nhận thấy lượng cung hay cầu của mình là rất nhỏ so với số lượng của toàn bộ thị trường và như thế lượng mua và bán của họ không ảnh hưởng gì đến giá cả trên thị trường. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có thể dùng một số chiêu thức để thu hút khách hàng về phía mình. Công ty P&G và Unilever cạnh tranh rất mãnh liệt trên thị Việt Nam nhưng ta không gọi chúng là cạnh tranh hoàn hảo. Bởi vì mỗi công ty chiếm một thị phần rất lớn trên thị trường hàng tiêu dùng nên chúng có thể làm thay đổi giá cả trên thị trường bằng các quyết định về cung ứng của mình.

P P

S

P0 d

P0


D


Q Q

Đường cung và cầu thị trường Đường cầu đối với doanh nghiệp


Hình 5.1: Đường cầu của thị trường và doanh nghiệp

Để tìm hiểu chi tiết hơn về sự chấp nhận giá của các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và để mô tả đúng đường cầu đối với hàng hóa của các doanh nghiệp này, chúng ta xét đến 4 đặc điểm của thị trường cạnh tranh hoàn hảo:

- Số lượng các doanh nghiệp trong ngành là đủ lớn sao cho sản lượng của mỗi doanh nghiệp là không đáng kể so với cả ngành nói chung. Do vậy, thị phần của mỗi doanh nghiệp sẽ rất nhỏ và doanh nghiệp không có khả năng chi phối giá cả trên thị trường bằng các quyết định cung ứng của mình.

- Sản phẩm của ngành phải tương đối đồng nhất và tính giá như nhau, để cho sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay thế hoàn hảo cho nhau. Sản phẩm của các nhà sản xuất là giống nhau nên người tiêu dùng có thể sử dụng sản phẩm của bất kỳ nhà sản xuất nào cũng đều cảm thấy thỏa mãn như nhau. Do vậy, nếu có một doanh nghiệp nào muốn định giá sản phẩm của mình cao hơn mức giá chung P0 doanh nghiệp đó sẽ không bán được sản phẩm nào hết vì người mua sẽ mua sản phẩm giống như vậy của doanh nghiệp khác.

- Thông tin hoàn hảo cho người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm sao cho người mua nhận thấy những sản phẩm giống nhau của các doanh nghiệp khác nhau thực sự

là như nhau. Thậm chí các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đồng nhất, họ cũng có thể định giá sản phẩm mình khác với người khác nếu người mua không có thông tin hoàn hảo về chất lượng và đặc tính của sản phẩm ấy. Chẳng hạn, nếu bạn không hiểu nhiều về bột giặt, bạn sẽ nghĩ rằng bột giặt OMO nếu bán với giá 25.000 đồng/kg sẽ tốt hơn bột giặt DASO có giá 20.000 đồng/kg. Do vậy, chúng ta phải giả định người mua có thông tin hoàn hảo về sản phẩm để doanh nghiệp không có khả năng định giá khác với mức giá chung.

- Tự do nhập và xuất ngành sao cho không có sự cấu kết của các doanh nghiệp hiện hành. Tại sao các doanh nghiệp không liên kết lại như các nước trong khối OPEC đã từng làm: hạn chế cung ứng để nâng giá? Chúng ta có thể trả lời điều này là không thể do các lý do: (1) với quá nhiều doanh nghiệp trong ngành, việc tổ chức thành hiệp hội sẽ rất tốn kém, các nhà quản lý sẽ tốn nhiều thời gian để thương lượng với các doanh nghiệp khác hơn là để tổ chức sản xuất; (2) nếu đường cầu thị trường rất co giãn, khả năng tăng giá của các doanh nghiệp là rất ít, thậm chí nếu các doanh nghiệp có thể cấu kết với nhau để tăng giá, điều này sẽ thu hút các doanh nghiệp mới nhập ngành và làm sản lượng tăng, dẫn tới giá sẽ lại giảm xuống. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, doanh nghiệp hoàn toàn tự do lựa chọn gia nhập hay rút khỏi ngành mà không có một trở ngại pháp lý nào cả hay không có các chi phí đặc biệt nào gắn với việc gia nhập.

Thị trường nông sản là ví dụ điển hình về thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Hầu hết thị trường nông sản đều mang đầy đủ 4 đặc điểm của thị trường này, chẳng hạn như lúa gạo, trái cây, thủy hải sản, v.v. Đối với các mặt hàng công nghiệp, đặc điểm của mỗi sản phẩm gắn liền với hình ảnh, nhãn hiệu của công ty sản xuất ra chúng nên sản phẩm trong ngành là không đồng nhất. Bên cạnh đó, đôi khi người tiêu dùng không có đầy đủ thông tin về sản phẩm nên người bán có thể định giá khác nhau cho các sản phẩm của mình. Vì vậy, thị trường hàng công nghiệp khó có thể là thị trường cạnh tranh hoàn hảo.

5.1.2. Lựa chọn sản lượng trong ngắn hạn

Trước hết, đối với một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo, doanh thu biên mà nó thu thêm được nhờ bán thêm một đơn vị sản lượng luôn luôn bằng mức giá: MR = P.

Tính chất này gắn liền với sự kiện: doanh nghiệp có thể bán mọi sản lượng q mà nó có thể sản xuất ra với cùng một một mức giá P được hình thành trên thị trường. Khi sản xuất và bán ra thêm một đơn vị sản lượng, vì giá không thay đổi, doanh nghiệp thu thêm được một khoản doanh thu chính bằng mức giá P. Nói cách khác, doanh thu biên luôn bằng chính mức giá ở mọi mức sản lượng.

Cung ứng sản phẩm trong ngắn hạn của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo

Lựa chọn sản lượng của doanh nghiệp trong ngắn hạn nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận:

Điều kiện cần: Trên một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, để tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp phải lựa chọn sản lượng sao cho tại đơn vị sản lượng cuối cùng, chi phí biên bằng với mức giá: MC = P. Đây là điều kiện chung áp dụng cho cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn.

Thật vậy, theo nguyên tắc tổng quát về sự lựa chọn sản lượng của một doanh nghiệp nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, mức sản lượng tối ưu phải là mức sản lượng mà tại đơn vị sản lượng cuối cùng, chi phí biên phải bằng doanh thu biên: MC = MR. Tuy nhiên, đối với một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo, doanh thu biên MR luôn luôn bằng mức giá P. Vì thế, điều kiện MC = MR trở thành điều kiện MC = P.


MC

P,MC


P1


0

Q1 Q2 Q

Hình 5.2: Mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận Q2 tương ứng với giao điểm của đường MC đang đi lên với đường cầu D.

Hãy xem xét điều kiện trên qua Hình 5.2. Tại mức giá thị trường P1 mà doanh nghiệp phải chấp nhận, doanh nghiệp phải đối diện với một đường cầu nằm ngang D. Sản lượng tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp phải tương ứng với giao điểm của đường chi phí biên MC với đường cầu D, nơi mà điều kiện MC = P (trong trường hợp này P = P1) được thỏa mãn. Tuy nhiên, với một đường chi phí biên MC hình chữ U, đường chi phí biên có thể cắt đường cầu nằm ngang tại hai điểm, tương ứng với hai mức sản lượng Q1 Q2 như trên Hình 5.2. Phải chăng cả hai mức sản lượng này đều đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp?

Tại sản lượng Q1, đường MC đang có xu hướng đi xuống. Với những mức sản lượng Q lân cận và nhỏ hơn Q1, đường MC nằm phía trên đường cầu D, có nghĩa là chi phí biên đang lớn hơn doanh thu biên hay mức giá. Lúc này, như ta đã biết, càng tăng sản lượng thì tổng lợi nhuận càng giảm. Khi sản lượng lân cận và lớn hơn Q1, đường MC lại nằm phía dưới đường cầu D, nên tương ứng với những mức sản lượng này, chi phí biên lại nhỏ hơn doanh thu biên. Khi đó, nếu tiếp tục tăng sản lượng sẽ làm cho tổng lợi nhuận tăng. Như vậy, tại sản lượng Q1, tổng lợi nhuận là tối thiểu chứ không phải là tối đa.

Ngược lại, nếu xét những điểm sản lượng lân cận với sản lượng Q2, nơi mà đường

cầu D cắt đường MC ở phần đang đi lên, ta có: tương ứng với các mức sản lượng còn nhỏ hơn Q2, chi phí biên còn nhỏ hơn doanh thu biên hay mức giá. Vì vậy, nếu tăng sản lượng, tổng lợi nhuận sẽ tăng. Khi sản lượng lớn hơn Q2, chi phí biên lại vượt quá doanh thu biên. Lúc đó, nếu tăng sản lượng thì tổng lợi nhuận sẽ giảm. Như thế, tại sản lượng Q2, lợi nhuận sẽ đạt giá trị lớn nhất. Nói cách khác, điều kiện cần để tối đa hóa lợi nhuận đối với một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo là nó phải lựa chọn sản lượng tương ứng với giao điểm của đường cầu mà nó đối diện và phần đường chi phí cận biên đang đi lên.

Điều kiện bổ sung: Về ngắn hạn, doanh nghiệp chỉ sản xuất (với mức sản lượng tương tự như sản lượng Q2 nói ở trên; giờ đây, để cho tiện ta đặt tên cho mức sản lượng này là Q*) nếu như mức giá thị trường lớn hơn hoặc bằng mức chi phí biến đổi bình quân tối thiểu. Trong trường hợp ngược lại, doanh nghiệp sẽ tạm thời đóng cửa, không sản xuất.

Giả sử, trong ngắn hạn, mức giá thị trường P đang lớn hơn hoặc bằng mức chi phí biến đổi bình quân tối thiểu (P AVCmin). Tại mức sản lượng Q*, ta có MC(Q*) = P. Do đó, MC(Q*) ≥ AVCmin, tức là đường chi phí biên MC đang nằm ở phía trên đường chi phí biến đổi bình quân AVC (điều này được suy ra từ mối quan hệ giữa đường MC và đường AVC mà chúng ta đã biết). Vì vậy, mức chi phí biên tại sản lượng Q* (bằng mức giá P) chắc chắn sẽ lớn hơn mức chi phí biến đổi bình quân tương ứng. Nghĩa là điều kiện bổ sung tổng quát (P AVC) được thỏa mãn hay doanh nghiệp có thể sản xuất được ở mức sản lượng này. Trái lại, nếu mức giá thị trường P nhỏ hơn AVC tối thiểu (P

< AVCmin), tại mức sản lượng Q*, chi phí biên cũng sẽ nhỏ hơn chi phí biến đổi bình quân tối thiểu: MC(Q*) = P < AVCmin. Điều đó có nghĩa là lúc này đường chi phí biên đang nằm dưới đường chi phí biến đổi bình quân. Vì thế, chi phí biên tại sản lượng Q* (cũng chính bằng mức giá) phải nhỏ hơn chi phí biến đổi bình quân tương ứng MC(Q*) = P < AVC(Q*). Do P < AVC, doanh nghiệp phải đóng cửa.

5.1.3. Đường cung trong ngắn hạn

Chúng ta hãy áp dụng mô hình lựa chọn sản lượng nhằm tối đa hóa lợi nhuận nói trên để xem xét cách thức một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo phản ứng ra sao khi giá thị trường thay đổi.

Ta hãy xuất phát từ một mức giá thị trường P0 tương đối thấp. Giả sử mức giá này nhỏ hơn mức chi phí biến đổi bình quân tối thiểu. Như điều kiện bổ sung chúng ta vừa đề cập, lúc này doanh nghiệp cần đóng cửa. Trong điều kiện giá thấp như vậy, doanh nghiệp không sản xuất.

MC

ATC

AVC

MC, ATC, AVC, AFC


P3=ATCmin

P2

P1=AVCmin


0

Q1 Q2 Q3

Q

Hình 5.3: Đường cung ngắn hạn của DN cạnh tranh hoàn hảo

Doanh nghiệp chỉ bắt đầu sản xuất khi mức giá thị trường tăng lên ít nhất đạt mức P1 = AVCmin. Tại mức giá này, doanh nghiệp có thể sản xuất với sản lượng Q1, nơi mà MC(Q1) = P1; tổng doanh thu của doanh nghiệp mới vừa đủ bù đắp các chi phí biến đổi, doanh nghiệp vẫn phải gánh chịu khoản lỗ tương đương với mức chi phí cố định giống như khi nó còn đóng cửa. Tuy nhiên, giờ đây việc đóng cửa không còn lợi hơn so với sản xuất. Vì thế, mức giá P1 là ngưỡng tối thiểu để một doanh nghiệp đã tham gia thị trường bắt đầu có thể sản xuất được.

Khi giá thị trường tăng lên đến mức P2 (AVCmin 2min), doanh nghiệp vẫn bị lỗ nhưng vẫn sản xuất bởi vì mặc dù giá bán nhỏ hơn tổng chi phí bình quân (giá thành) nhưng vẫn lớn hơn chi phí biến đổi bình quân. Nói cách khác, doanh nghiệp lãi so với chi phí biến đổi bình quân nhưng lỗ so với tổng chi phí. Doanh nghiệp sản xuất sẽ thu được lại một phần chi phí cố định bình quân nhưng chưa đủ bù đắp hết phần chi phí cố định bình quân.

Khi giá thị trường tăng lên đến mức P3 (P3 = ATCmin), doanh nghiệp hòa vốn. Doanh thu thu được bù đắp đủ chi phí cố định và chi phí biến đổi. Nếu giá thị trường tiếp tục tăng (P > P3) thì doanh nghiệp sẽ có lãi.

Như vậy, trong ngắn hạn doanh nghiệp sẽ sản xuất khi mà P > P1. Đường cung của doanh nghiệp chính là một phần của đường MC tính từ AVCmin trở lên.

AVCmin được gọi là điểm đóng cửa; ATCmin được gọi là điểm hòa vốn.

Cách xác định diểm đóng cửa và điểm hòa vốn:

- Để xác định điểm đóng cửa, ta có thể giải một trong 2 phương trình: P = AVCmin hoặc MC = AVC (vì MC luôn cắt AVC tại AVCmin)

- Để xác định điểm hòa vốn, ta có thể giải một trong 3 phương trình:

TR=TC; P = ATCmin hoặc MC = ATC (vì MC luôn cắt ATC tại ATCmin)

Xem tất cả 215 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí