5.1.4. Lựa chọn sản lượng trong dài hạn
Lựa chọn sản lượng của doanh nghiệp trong dài hạn gắn liền với khả năng điều chỉnh được các yếu tố đầu vào của nó trước những biến động dài hạn của thị trường. Các chi phí mà doanh nghiệp xem xét là các chi phí dài hạn. Doanh thu mà doanh nghiệp dự kiến hay cân nhắc cũng được xây dựng trên mức giá mà doanh nghiệp kỳ vọng trong một khoảng thời gian dài. Những điều kiện tối đa hóa lợi nhuận chi phối sự lựa chọn đầu ra của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo trong dài hạn có thể được suy ra từ điều kiện tổng quát, gắn với đặc điểm chấp nhận giá của doanh nghiệp này.
- Điều kiện cần: trong dài hạn, để tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo phải lựa chọn sản lượng sao cho tại đơn vị sản lượng cuối cùng, chi phí biên dài hạn bằng với mức giá mà doanh nghiệp trông đợi (LMC = P). Điều kiện này là hiển nhiên, như ta đã lý giải trong phần phân tích cung ứng sản phẩm ngắn hạn của doanh nghiệp. Nó chỉ là cụ thể hóa điều kiện cần tổng quát trong trường hợp doanh thu biên MR luôn luôn bằng mức giá P.
- Điều kiện bổ sung: về dài hạn, doanh nghiệp chỉ sản xuất (với mức sản lượng tương ứng với điểm cắt của phần đi lên của đường chi phí biên dài hạn với đường cầu mà doanh nghiệp đối diện) khi mức giá dài hạn mà nó dự kiến lớn hơn hoặc bằng mức chi phí bình quân tối thiểu dài hạn (P ≥ LACmin). Trong trường hợp ngược lại (P < LACmin), doanh nghiệp sẽ rút lui khỏi ngành.
Cách lập luận để giải thích điều kiện này cũng tương tự như trường hợp ngắn hạn.
5.1.5. Đường cung dài hạn của doanh nghiệp
Từ các điều kiện quy định cách thức lựa chọn đầu ra nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong dài hạn nói trên, ta cũng có thể hiểu được thực chất của đường cung dài hạn của một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo.
Như có thể thấy qua hình 5.4, đường LMC biểu thị đường chi phí biên dài hạn của doanh nghiệp. Đường này cắt đường LAC (vì trong dài hạn, tổng chi phí chỉ bao gồm các chi phí biến đổi nên LATC và LAVC thực chất chỉ là một, do đó, có thể ký hiệu chung là LAC) tại điểm A, tương ứng với mức LACmin. Nếu mức giá thị trường là tương đối cao, chẳng hạn là P1 như trên hình 5.4, điều kiện cần cho thấy sản lượng tối ưu mà doanh nghiệp lựa chọn sẽ là q1, tương ứng với điểm C, nơi mà đường cầu nằm ngang ứng với mức giá P1 cắt đường LMC. Tại mức sản lượng này, điều kiện bổ sung (P≥LACmin) được thỏa mãn nên doanh nghiệp sẽ yên tâm sản xuất trong ngành. Khi mức giá hạ xuống đến P2 song vẫn còn lớn hơn LACmin, trượt theo đường LMC, doanh nghiệp phản ứng bằng cách cắt giảm sản lượng xuống thành q2 (tương ứng với điểm B). Chỉ khi nào mức giá hạ xuống thấp hơn LACmin, chẳng hạn như mức giá P3, doanh nghiệp mới không có khả năng trang trải được các chi phí bằng các khoản doanh thu và chịu thua lỗ, nó mới rút lui khỏ ngành. Như vậy, đường cung dài hạn của doanh
nghiệp, với tư cách là đường biểu thị mối quan hệ sản lượng và giá cả dài hạn, chính là đường nối liền các điểm như A, B, C trên đường LMC. Thực chất, đó là một phần dốc lên của đường LMC, tính từ điểm A, tương ứng với mức giá bằng LACmin, trở lên.
LMC
C
LAC
B
A
P,LAC,LMC
P1 P2
LACmin
P3
0
q3 q2 q1 q
Hình 5.4: Đường cung dài hạn của một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
5.1.6. Cân bằng dài hạn
Hình 5.5 cho thấy ở mức giá P1 hãng tăng sản lượng và tạo ra lợi nhuận dương. Vì lợi nhuận của các hãng ở trong ngành là dương nên các nhà đầu tư sẽ chuyển tài nguyên từ ngành khác sang ngành này, nghĩa là có các hãng mới gia nhập ngành. Điều đó làm cho cung thị trường tăng, giá thị trường giảm như biểu thị ở hình 5.5. Ở phần
(b) trong hình, đường cung dịch chuyển từ S1 đến S2, giá thị trường của sản phẩm giảm từ P1 xuống P2. Ở phần (a) trong hình, đường chi phí trung bình dài hạn của hãng tiếp xúc với đường giá nằm ngang ở mức sản lượng q2. Lúc đó hãng thu được lợi nhuận bằng không. Bản thân hãng không có động cơ để rời bỏ ngành. Các hàng mới cũng không có động cơ để gia nhập ngành. Ngành đạt cân bằng dài hạn.
Như vậy, cân bằng dài hạn xảy ra khi thỏa mãn đồng thời cả 3 điều kiện:
- Thứ nhất, tất cả các hãng trong ngành đều tối đa hóa được lợi nhuận.
- Thứ hai, không hãng nào trong ngành có động cơ rút khỏi thị trường và không có hãng mới nào có động cơ gia nhập thị trường vì lợi nhuận của các hãng trong ngành bằng không.
- Thứ ba, giá thị trường là mức tại đó lượng cung của tất cả các hãng bằng lượng cầu của tất cả những người tiêu dùng.
LMC
LAC
P
P1
P2
0
q2 q
(a)
S1
S2
D
P
P1
P2
0
Q1 Q2 Q
(b)
Hình 5.5: Cân bằng dài hạn
Một trong ba điều kiện trên nếu không được thỏa mãn thì không thể có cân bằng dài hạn. Chẳng hạn, khi giá các yếu tố sản xuất giảm xuống, đường chi phí trung bình dài hạn của hãng dịch chuyển xuống dưới, ở mức giá P2 hãng sẽ thu được lợi nhuận kinh tế dương, điều đó khuyến khích các hãng mới gia nhập ngành, cung thị trường tăng, đường cung dịch chuyển sang phải, giá sản phẩm sẽ giảm, các hãng đang ở trong ngành lại phải thu hẹp quy mô, lợi nhuận của các hãng ở trong ngành giảm xuống, đến khi giá giảm xuống bằng chi phí trung bình dài hạn tối thiểu mới của hãng thì lúc đó không có các hãng mới gia nhập thêm vào ngành nữa. Ngành đạt cân bằng dài hạn.
Điều kiện lợi nhuận kinh tế bằng không là cần thiết để ngành đạt cân bằng dài hạn. Vì lợi nhuận kinh tế dương là một cơ hội tốt cho các nhà đầu tư và là động cơ để các hãng mới gia nhập ngành. Nhưng lợi nhuận kế toán dương có thể là tín hiệu cho
thấy các hãng ở trong ngành sở hữu những nguồn lực có giá trị, và điều này không nhất thiết khuyến khích sự gia nhập của các hãng mới.
5.2. THỊ TRƯỜNG ĐỘC QUYỀN THUẦN TUÝ
5.2.1. Độc quyền bán
5.2.1.1. Khái niệm
Thị trường độc quyền là thị trường mà trong đó chỉ có có một doanh nghiệp duy nhất, sản xuất, bán ra (hoặc mua vào) một loại sản phẩm độc nhất không có sản phẩm khác thay thế (Độc quyền bán hoặc độc quyền mua).
Ví dụ: Điện, nước, dịch vụ bưu chính viễn thông, ngân hàng, xăng dầu...
Vậy, người bán (hoặc người mua) có quyền quyết định giá bán, lượng mua (bán) là bao nhiêu. Đây cũng là người "định giá", có sức mạnh thị trường. Họ quyết định tăng giá hoặc giảm giá, giảm sản lượng bán hay tăng sản lượng mua để thu được lợi nhuận tối đa lợi nhuận độc quyền.
Nguyên nhân dẫn đến độc quyền:
- Quyền sở hữu các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh.
- Bằng phát minh sáng chế được Nhà nước công nhận và pháp luật bảo hộ.
- Giấy phép của Nhà nước thông qua việc cấp giấy phép kinh doanh Nhà nước đã hạn chế sự xâm nhập thị trường của doanh nghiệp.
- Do có lợi thế tuyệt đối về điều kiện tự nhiên: kinh doanh các dịch vụ về du lịch, bến bãi,...
Nếu những doanh nghiệp nào có 1 trong 4 nguyên nhân trên thì gọi là độc quyền thuần tuý do các nguyên nhân khách quan mang lại.
- Trình độ công nghệ kỹ thuật hiện đại và sản xuất trên quy mô lớn doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế về quy mô.
Q tăng AVC và MC giảm thì doanh nghiệp hạ giá sản phẩm để loại tất cả các sản phẩm cùng loại ra khỏi thị trường Độc quyền có được trong trường hợp này gọi là độc quyền tự nhiên. Độc quyền tự nhiên là độc quyền có được do các nguyên nhân chủ quan.
5.4.1.2. Đặc điểm của thị trường độc quyền và doanh nghiệp độc quyền
- Trên thị trường chỉ có một người bán, sản phẩm sản xuất và bán ra không có sản phẩm khác thay thế. Do đó doanh nghiệp có sức mạnh thị trường (có khả năng kiểm soát giá và sản lượng).
- Đường cầu sản phẩm của doanh nghiệp trùng với đường cầu thị trường. Do đó, đường doanh thu cận biên của nhà độc quyền luôn nhỏ hơn giá độc quyền: MR < P.
- Gia nhập và rút khỏi thị trường cực kỳ khó khăn vì luôn có hàng rào vô hình ngăn cản sự xâm nhập thị trường của doanh nghiệp khác do: các nguyên nhân dẫn đến độc quyền; Chi phí đầu tư lần đầu rất lớn.
- Trong độc quyền tự nhiên, ATC và MC liên tục giảm khi tăng sản lượng sản xuất (giảm phí theo quy mô sản xuất), MC luôn nhỏ hơn ATC tại mọi mức sản lượng.
5.4.1.3. Hành vi của doanh nghiệp
Sau khi đã biết độc quyền hình thành như thế nào, giờ đây chúng ta có thể phân tích xem một doanh nghiệp độc quyền ra quyết định như thế nào về việc sản xuất bao nhiêu sản phẩm và quy định giá nào cho nó. Việc phân tích hành vi độc quyền được xem là điểm khởi đầu cho việc đánh giá xem độc quyền có phải là điều mong muốn đối với xã hội không và Chính phủ có thể theo đuổi những chính sách gì trên các thị trường độc quyền.
Độc quyền và cạnh tranh
Sự khác nhau cơ bản giữa 1 doanh nghiệp cạnh tranh và độc quyền là khả năng của doanh nghiệp trong việc tác động tới giá sản phẩm của họ. Doanh nghiệp cạnh tranh tương đối nhỏ so với thị trường mà họ hoạt động và vì vậy nó phải coi giá sản phẩm của mình bị quy định bởi điều kiện thị trường nên anh ta có thể thay đổi giá cả hàng hoá của mình bằng cách điều chỉnh lượng cung ra thị trường.
Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo là người chấp nhận giá nên họ phải đối mặt với đường cầu nằm ngang. Do nhà độc quyền là người sản xuất duy nhất trên thị trường của mình nên nó có đường cầu dốc xuống. Vì vậy, nhà độc quyền phải chấp nhận mức giá thấp hơn khi nó muốn bán thêm sản phẩm, nếu nhà độc quyền tăng giá sản phẩm của mình, người tiêu dùng sẽ mua ít sản phẩm hơn.
DN cạnh tranh hoàn hảo
D
DN độc quyền
D
P P
Hình 5.6: Đường cầu đối với doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo và doanh nghiệp độc quyền
0 Q 0 Q
Đường cầu thị trường tạo ra một ràng buộc đối với khả năng kiếm lợi nhuận của nhà độc quyền bằng cách tận dụng sức mạnh thị trường. Nếu điều kiện cho phép, nhà độc quyền muốn định giá ở mức cao và bán lượng lớn sản phẩm tại mức giá cao đó. Đường cầu thị trường làm cho kết cục này không thể xảy ra. Cụ thể, đường cầu thị trường mô tả những kết hợp giữa giá và lượng mà doanh nghiệp độc quyền có thể lựa chọn. Bẵng cách điều chỉnh lượng sản xuất (hoặc nói tương đương là thay đổi giá), nhà
độc quyền có thể lựa chọn bất kỳ điểm nào trên đường cầu, song họ không thể lựa chọn những điểm nằm ngoài đường cầu.
Vậy nhà độc quyền lựa chọn điểm nào trên đường cầu? Giống như doanh nghiệp cạnh tranh, chúng ta cũng giả định mục tiêu của độc quyền là tối đa hoá lợi nhuận.
Xét ví dụ về việc cung cấp nước sạch ở 1 thị trấn.
Bảng 5.1: Tính MR, AR, MR thị trường nước sạch theo giá và sản lượng
Mức giá (P, Đôla) | TR = P*Q (đôla) | Doanh thu bình quân (AR = TR/Q, đô la) | MR = TR/Q (đôla) | |
0 | 11 | 0 | - | - |
1 | 10 | 10 | 10 | 10 |
2 | 9 | 18 | 9 | 8 |
3 | 8 | 24 | 8 | 6 |
4 | 7 | 28 | 7 | 4 |
5 | 6 | 30 | 6 | 2 |
6 | 5 | 30 | 5 | 0 |
7 | 4 | 28 | 4 | -2 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tính Các Giá Trị Chi Phí Bình Quân Và Chi Phí Cận Biên
- Kinh tế học vi mô - ĐH SPKT Nam Định - 16
- Khái Niệm, Đặc Điểm Của Thị Trường Và Doanh Nghiệp
- Hạn Chế Của Độc Quyền Và Điều Tiết Độc Quyền Của Nhà Nước
- Lý Thuyết Trò Chơi Và Những Quyết Định Phụ Thuộc Lẫn Nhau
- Kinh tế học vi mô - ĐH SPKT Nam Định - 21
Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.
Từ cột Q, P có thể vẽ được đường cầu dốc xuống điển hình là Q tăng, P giảm.
Doanh thu bình quân (AR) là mức doanh thu mà doanh nghiệp nhận được trên mỗi đơn vị sản lượng bán ra. Doanh thu bình quân luôn bằng giá sản phẩm, điều này đúng cho cả DN cạnh tranh và DN độc quyền. Doanh thu cận biên của DN độc quyền luôn thấp hơn giá bán sản phẩm của nó, vì họ phải đối mặt với đường cầu dốc xuống và để tăng Q thì phải giảm P.
D
MR
P
0 Q
Hình 5.7: Đường doanh thu cận biên của doanh nghiệp độc quyền
DN cạnh tranh có thể bán bất kỳ sản lượng nào mà họ muốn tại mức giá thị trường. Khi sản xuất tăng thêm 1 đơn vị họ nhận được mức giá thị trường cho đơn vị sản phẩm tăng thêm đó và mức giá nhận được không hề thấp hơn giá bán trước đó, nghĩa là, do DN cạnh tranh là người chấp nhận giá nên MR = P. Ngược lại nhà độc quyền tăng sản xuất thêm 1 đơn vị, họ phải giảm giá bán của mỗi đơn vị sản phẩm mà hiện họ đang bán, vì vậy MR
Trong DN độc quyền do P = AR nên đường cầu chính là đường AR, do MR < P nên đường MR nằm dưới đường cầu của nó.
Phương pháp xác định sản lượng, giá bán và lợi nhuận của doanh nghiệp trong thị trường độc quyền
Phương pháp xác định sản lượng Q*
Để tối đa hoá lợi nhuận, doanh nghiệp chọn Q* với điều kiện MR = MC và MR < P
MC
P
MR
P, MR, MC
P*
0 Q* Q
Hình 5.8: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong thị trường độc quyền
Tại điểm tối đa hoá lợi nhuận, giá bán sản phẩm của nhà độc quyền luôn luôn lớn hơn MC (tức là giá bán đó không phản ánh đúng chi phí sản xuất mà luôn cao hơn chi phí sản xuất).
Chỉ số để đo sức mạnh về độc quyền bán là Lener (L):
L = (P - MC)/P ( 0 L 1)
Phương pháp xác định giá bán P*
Được xác định theo công thức:
P* =
MC x
E
E + 1
= MR x
E
E + 1
Trong đó: E / E + 1 là hệ số định giá
MC là chi phí cận biên của nhà độc quyền tại điểm tối đa hoá lợi nhuận. E là độ co dãn cầu theo giá trong khoảng từ Q1 đến Q2 (Q1 < Q* < Q2 ).
Doanh nghiệp độc quyền chỉ việc đem chi phí cận biên hoặc doanh thu cận biên (yếu tố nhà độc quyền đã biết) nhân với hệ số định giá sẽ tìm được mức giá bán sản phẩm để tối đa hoá lợi nhuận.
5.2.1.4. Mất không từ sức mạnh độc quyền
Vì sức mạnh độc quyền tạo ra cao hơn và sản lượng sản xuất ra thấp hơn so với cạnh tranh hoàn hảo, nên ta dễ thấy người tiêu dùng bị thiệt hại, còn người sản xuất thì được lợi. Nhưng nếu coi phúc lợi của người tiêu dùng và của người sản xuất như nhau thì cả người tiêu dùng và người sản xuất tính thành một tổng thể sẽ không được lợi bằng trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Trên hình vẽ cho thấy, nếu thị trường là cạnh tranh hoàn hảo thì giá và sản lượng sẽ là Pc và Qc. Nếu thị trường là độc quyền thì giá và sản lượng là Pm và Qm. Như vậy so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì thị trường độc quyền tạo ra phúc lợi ít hơn, một phần thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất bị mất do chỉ sản xuất ở mức sản lượng Qm. Phần phúc lợi bị mất gọi là phần mất không (diện tích tam giác ABC).
MC
B
A
C
D
MR
O
Qm
Qc
P
Pm Pc
Q
Hình 5.9: Mất không do sức mạnh độc quyền
5.2.1.5. Các phương pháp định giá khác của hãng độc quyền bán
Hãng độc quyền bán nói riêng, các hãng có sức mạnh độc quyền bán nói chung, không phải là người chấp nhận giá mà là người đặt giá, vì thế có chiến lược giá. Mục đích của chiến lược giá là để chiếm thặng dư tiêu dùng, biến thành lợi nhuận của hãng.
Trong mục trước, ta đã thấy cách mà hàng độc quyền bán lựa chọn kết hợp giá và sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận. Sản lượng mà hãng sản xuất và bán là Q* tại đó MC bằng MR, tất cả các đơn vị sản phẩm này được bán cùng mức giá P*. Như trong hình
5.10 cho thấy những khách hàng ở vùng a của đường cầu sẵn sàng trả giá cao hơn P*. Nhưng nếu tăng giá sẽ mất đi một số khách hàng. Tương tự, những khách hàng ở vùng b của đường cầu lại không thể mua được sản phẩm của hãng vì họ sẵn sàng trả giá thấp