Hạn Chế Của Độc Quyền Và Điều Tiết Độc Quyền Của Nhà Nước

hơn P*. Tuy nhiên, một số trong những khách hàng này lại sẵn sàng trả giá cao hơn chi phí cận biên. Nhưng nếu hàng giảm giá để bán thêm cho số khách hàng này thì doanh thu từ những khách hàng hiện có sẽ giảm.

a

MC

b

MR

D

O

Q*

P

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.


P*

Kinh tế học vi mô - ĐH SPKT Nam Định - 19


Q


Hình 5.10

Vậy làm thế nào để chiếm được thặng dư tiêu dùng của khách hàng ở vùng a của đường cầu và có thể bán cho khách hàng ở vùng b của đường cầu một cách có lợi? Rò ràng, bán tất cả các đơn vị sản phẩm chung một giá thì không thể đạt điều đó. Hãng có thể đạt được mục đích bằng cách bán cho các khách hàng khác nhau các mức giá khác nhau. Ta sẽ lần lượt xem xét các cách đặt giá khác nhau của hãng độc quyền bán.

Phân biệt giá

Có ba hình thức phân biệt giá: cấp một, cấp hai và cấp ba.

Phân biệt giá cấp một

Phân biệt giá cấp một hay phân biệt giá hoàn hảo là đặt cho mỗi khách hàng một mức giá bằng mức giá cao nhất mà họ sẵn sàng trả. Mức giá cao nhất mà khách hàng sẵn sàng trả được xác định trên đường cầu. Có thể thấy việc phân biệt giá cấp một làm tăng lợi nhuận của hãng độc quyền bán như thế nào với sự hỗ trợ của hình 5.11.


P

Lợi nhuận tăng thêm

MC

P*

Pc

MR

D = AR

O

Q*

Q**

Q

Hình 5.11: Phân biệt giá cấp 1

Lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Khi phân biệt giá cấp một, đường cầu không còn là đường doanh thu trung bình nữa mà là đường doanh thu cận biên. Mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận trong trường hợp này là Q**, tại đó doanhthu cận biên bằng chi cận biên. Tổng lợi nhuận là diện tích nằm dưới đường doanh thu cận biên (đường cầu), trên đường chi phí cận biên, giữa mức sản lượng bằng 0 và sản lượng Q**. Khi bán một giá, tổng lợi nhuận của hãng là diện tích nằm dưới đường MR trong hình 5.11, trên đường chi phí cận biên, giữa mức sản lượng bằng 0 và sản lượng Q*. Như vậy, tổng lợi nhuận của hãng đã tăng thêm một phần bằng diện tích nằm dưới đường doanh thu trung bình (đường cầu), trên đường MR, giữa mức sản lượng bằng 0 và sản lượng Q**.

Phân biệt giá cấp một có thể áp dụng trong dịch vụ phẫu thuật thẩm mỹ, tư vấn pháp luật....

Phân biệt giá cấp hai

Trong một số thị trường, mỗi khách hàng tiêu dùng một số lượng nào đó trong một khoảng thời gian xác định. Mức giá mà họ sẵn sàng trả giảm xuống khi lượng tiêu dùng tăng lên. Chẳng hạn như tiêu dùng điện, nước.... Trong tình huống này hãng có thể phân biệt giá theo số lượng hay còn gọi là phân biệt giá cấp hai.


P

D

P1

P*

P2 P3

Lợi nhuận thay đổi

+

ATC

+

MR

MC

O

Q*

-

+

Q


Hình 5.12: Phân biệt giá cấp 2


Hình 5.12 minh họa trường hợp hãng có chi phí cận biên và chi phí trung bình giảm dần thực hiện phân biệt giá cấp hai. Nếu chỉ bán một giá thì nó sẽ đặt giá P* và bán mức sản lượng Q*. Thực hiện phân biệt giá cấp hai, hãng đặt ba mức giá P1, P2, P3 cho ba khối lượng tương ứng. Lợi nhuận của hãng tăng thêm những diện tích được đánh dấu cộng và giảm mất diện tích đánh dấu trừ. Về tổng thể, lợi nhuận của hãng tăng khi thực hiện phân biệt giá cấp hai.

Phân biệt giá cấp ba

Phân biệt giá cấp ba là chia khách hàng ra thành các nhóm khác nhau với đường cầu riêng biệt rồi đặt các mức giá khác nhau để bán cho các nhóm khách hàng khác nhau. Chẳng hạn các trường đại học thu các mức học phí khác nhau của những sinh viên theo học các hệ khác nhau, các hãng hàng không đặt các mức giá khác nhau cho cùng một chuyến bay...

MC

D2

MR1

D1

MR

MRT

2

P


P1 P2


Hình 5.13: Phân biệt giá cấp 3

O Q1

Q2 QT Q


Hình 5.13 giúp ta hiều cách xác định giá và lượng bán cho mỗi nhóm khách hàng trong trường hợp có hai nhóm. Mỗi nhóm khách hàng có các đường cầu và đường doanh thu cận biên là D1, MR1 và D2, MR2 tương ứng. Bước thứ nhất cần phải xác định sản lượng tối đa hóa lợi nhuận cho hãng. Mức sản lượng đó là QT, tại đó doanh thu cận biên tổng cộng từ hai nhóm khách hàng MRT bằng chi phí cận biên của hãng. Lưu ý rằng, đường doanh thu cận biên tổng cộng là tổng chiều ngang của hai đường doanh thu cận biên riêng. Bước thứ hai là phân chia mức sản lượng QT này để bán cho hai nhóm khách hàng với hai mức giá riêng để thu được lợi nhuận tối đa. Khi nào doanh thu cận biên từ đơn vị cuối cùng bán cho mỗi nhóm còn khác nhau thì việc phân bổ lại còn làm tăng lợi nhuận. Vậy, số lượng bán cho mỗi nhóm phải thỏa mãn điều kiện doanh thu cận biên của đơn vị cuối cùng bán cho mỗi nhóm phải bằng nhau. Trong hình 5.13, QT được xác định ở điểm cắt của đường MC và đường MRT. Mức sản lượng QT được chia cho hai nhóm khách hàng sao cho MR1 = MR2 = MRT = MC. Từ điểm cắt của MRT và MC kẻ đường nằm ngang để tìm điểm cắt với các đường MR1 và MR2 từ đó có thể xác định được các mức sản lượng Q1 và Q2 bán cho mỗi nhóm khách hàng. Với các mức sản lượng được phân chia là Q1 và Q2 có thể xác định được các mức giá P1 và P2 tương ứng trên các đường cầu D1 và D2.

5.2.1.6. Hạn chế của độc quyền và điều tiết độc quyền của nhà nước

- Hạn chế của độc quyền:

+ Giá quá cao và sản lượng quá thấp gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội.

Vì giá cao mà sản lượng thấp, giá cả không phản ánh đúng chi phí sản xuất (P>MC).

+ Chất lượng sản phẩm thấp (độc quyền là kẻ thù của chất lượng). Vì độc quyền không chịu sức ép của cạnh tranh nên thường trì trệ, bảo thủ trong việc đổi mới công nghệ, kỹ thuật mà người tiêu dùng vẫn phải chấp nhận.

- Điều tiết độc quyền:

Để bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng và cho xã hội nói chung thì nhiều nước thường sử dụng luật chống độc quyền để điều tiết độc quyền, tạo điều kiện thuận lợi để cạnh tranh trong độc quyền. Chính phủ có 2 cách để chống độc quyền:

+ Điều tiết giá cả: bằng cách ấn định một mức giá nhất định (giá tối đa), bắt buộc nhà độc quyền phải bán với giá đó (mức giá này thường thấp hơn giá độc quyền). Do vậy để tăng lợi nhuận, nhà độc quyền buộc phải sản xuất một lượng hàng hoá dịch vụ lớn hơn.

+ Điều tiết sản lượng: bằng cách buộc nhà độc quyền phải sản xuất một lượng hàng nhất định (sản lượng tối thiểu), thường là lớn hơn sản lượng mà nhà độc quyền đã chọn để tối đa hoá lợi nhuận (sản lượng độc quyền). Do vậy muốn bán hết được hàng hoá, tăng lợi nhuận thì nhà độc quyền phải giảm giá.

Nếu để nhà độc quyền quyết định thì họ sẽ sản xuất tại Qmvà giá bán là Pm. (Khác với doanh nghiệp ở thị trường cạnh tranh hoàn hảo là quyết định sản xuất ở mức sản lượng tối ưu).

5.2.2. Độc quyền mua

Độ quyền mua là một thị trường trong đó chỉ có một người mua nhưng có rất nhiều người bán. Nếu thị trường có một vài người mua thì đó là độc quyền tập đoàn mua. Trong mục trước, người bán có sức mạnh thị trường nên họ có thể ảnh hưởng đến mức giá. Khi người mua có sức mạnh thị trường thì họ cũng có thể tác động đến mức giá mà họ phải trả cho sản phẩm mình mua.

Khi mua hàng hóa, người tiêu dùng cũng có thể sử dụng nguyên lý cân bằng cận biên để tối đa hóa lợi ích ròng. Nghĩa là người mua sẽ tăng lượng mua cho đến tận khi giá trị tăng thêm hay lợi ích cận biên đúng bằng chi tiêu bổ sung.

Giá trị tăng thêm hay lợi ích cận biên của hàng hóa được biểu thị bằng đường cầu. Khi người mua có sức mạnh độc quyền mua thì chi tiêu cận biên của việc mua thêm một đơn vị hàng hóa không phải là giá, mà cao hơn giá nếu đường cung thị trường dốc lên. Đường cung dốc lên cho thấy người bán chỉ sẵn sàng bán số lượng lớn hơn ở mức giá cao hơn. Mức giá cao hơn không chỉ trả cho đơn vị mua thêm mà phải trả cho tất cả các đơn vị mua, do đó chi tiêu cận biên cao hơn giá.

Khái niệm chi tiêu cận biên cũng được định nghĩa tương tự như bất kỳ khái niệm cận biên nào khác. Đó là phần chi tiêu bổ sung khi mua thêm một đơn vị sản phẩm. Ta có thể viết:

ME = ∆TE/∆Q = ∆(PQ)/∆Q = P + Q.(∆P/∆Q)

Vì đường cung dốc lên nên ∆P/∆Q là số dương do đó ME > P.

Hình 5.14 biểu thị quyết định giá và lượng mua tối ưu của độc quyền mua. Sản lượng Q* được xác định ở điểm cắt của đường ME và đường cầu hay đường lợi ích cận biên. Giá P* được xác định theo đường cung.

ME

P = AE

D

P


P*


Q

Hình 5.14: Giá và lượng mua tối ưu của độc quyền

O Q*


Tương tự như trong thị trường độc quyền bán, người mua độc quyền có sức mạnh thị trường. Mức độ của sức mạnh độc quyền mua có thể đo bằng tỷ số của phần chênh lệch giữa lợi ích cận biên và giá trên mức giá.

Sức mạnh độc quyền mua cũng gây ra thiệt hại cho xã hội giống như sức mạnh độc quyền bán. Có thể làm rò điều này với sự hỗ trợ của hình 5.15.

ME

P = AE

b

ac

D

P


Pc Pm


Q

O Q*


Hình 5.15: Thiệt hại xã hội do sức mạnh độc quyền mua

So với thị trường cạnh tranh, giá và sản lượng trong thị trường độc quyền mua thấp hơn. Điều này làm cho thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất thay đổi. Thặng dư sản xuất của người bán giảm mất một phần bằng diện tích hình chữ nhật a và hình tam giác c. Thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một phần bằng diện tích hình chữ nhật a do giá thấp hơn, nhưng đồng thời cũng bị giảm một phần do sản lượng thấp hơn, biểu thị bằng diện tích hình tam giác b. Như vậy, tổng thay đổi trong lợi ích ròng của người sản xuất và người tiêu dùng là (-b-c). Có nghĩa là, so với thị trường cạnh tranh, thiệt hại của xã hội do sức mạnh độc quyền mua gây ra bằng diện tích tam giác b và c.

5.3. THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH ĐỘC QUYỀN

5.3.1. Khái niệm, đặc điểm của thị trường và doanh nghiệp

- Khái niệm

Thị trường cạnh tranh độc quyền là kiểu thị trường vừa có tính cạnh tranh vừa có tính độc quyền nhưng tính cạnh tranh chiếm ưu thế hơn độc quyền.

- Đặc điểm:

+ Sự phân biệt sản phẩm: Khác với cạnh tranh hoàn hảo khi mà tất cả các hãng đều bán sản phẩm đồng nhất thì trong cạnh tranh độc quyền các hãng sản xuất ra các sản phẩm khác nhau. Người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm của từng hãng thông qua nhãn hiệu, quảng cáo, đóng gói và các dịch vụ khác.

+ Số lượng người sản xuất tương đối lớn nhưng với quy mô nhỏ. Chính vì vậy mà mỗi nhà sản xuất sẽ có ảnh hưởng tương đối đến các quyết định về sản xuất, giá cả của riêng mình.

+ Hàng rào ngăn cản thấp: các hãng dễ ràng xâm nhập vào thị trường

5.3.2. Đường cầu của doanh nghiệp

Đường cầu của hãng là đường dốc xuống: khi hãng nâng giá bán lên đôi chút thì hãng sẽ mất đi một lượng khách hàng chứ không phải là toàn bộ và ngược lại, nếu hãng giảm giá đi một chút hãng sẽ có thêm một ít khách hàng chứ không phải là toàn bộ khách hàng của đối thủ. Điều này hoàn toàn khác so với cạnh tranh hoàn hảo khi đường cầu đối với một hãng là đường nằm ngang.

5.3.3. Cân bằng ngắn hạn và cân bằng dài hạn

Giá và sản lượng của hãng cạnh tranh độc quyền được xác định như thế nào? Câu trả lời ở đây là theo quy tắc tối đa hoá lợi nhuận. Một hãng cạnh tranh độc quyền sẽ sản xuất ở mức sản lượng tại đó chi phí biên bằng với doanh thu cận biên (MR = MC).

Trên hình 5.16 ta thấy mức sản lượng mang lại lợi nhuận tối đa là Q* được xác định bằng đường giao điểm của đường MR và đường MC. Mức giá được xác định là 0P* và lợi nhuận là DC P1P*.

MC

P C


P*

ATC

P1


D

MR


0 Q* Q

Hình 5.16: Trạng thái cân bằng ngắn hạn của hãng cạnh tranh độc quyền

Tuy nhiên trong dài hạn, nhiều hãng mới xâm nhập vào thị trường làm cho giá bán thấp xuống, lợi nhuận sẽ tiến tới 0. Điều này được minh hoạ bằng hình sau:


MC

ATC

D

MR

D’

P P’


0 Q’ Q* Q

Hình 5.17: Trạng thái cân bằng dài hạn của hãng cạnh tranh độc quyền

Khi nhiều hãng mới xuất hiện, thị phần của hãng bị co hẹp lại. Điều này được minh hoạ bằng sự dịch chuyển đường cầu D về phía trái đến D’. Hãng sẽ sản xuất tại mức Q’ và đặt giá bằng P’ = ATC. Lợi nhuận kinh tế của hãng sẽ biến mất. Hình vẽ này minh hoạ tình trạng dư thừa của hãng cạnh tranh độc quyền. Đó là vì hãng sản xuất tại mức Q’ thấp hơn mức Q* ứng với mức sản lượng có ATC thấp nhất.

5.4. THỊ TRƯỜNG ĐỘC QUYỀN TẬP ĐOÀN

5.4.1. Khái niệm, đặc điểm của thị trường và doanh nghiệp

- Khái niệm:

Độc quyền tập đoàn là một kiểu thị trường trong đó chỉ có một vài hãng khống chế và phân chia nhau toàn bộ phần lớn lượng cung trên thị trường về một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó (mang tính độc quyền nhiều hơn cạnh tranh).

- Đặc điểm:

+ Số lượng người bán ít cho nên mỗi hãng có phần thị trường lớn nhưng lại cạnh tranh trực tiếp với nhau. Ví dụ như xi măng.

+ Các hãng phụ thuộc nhau rất chặt chẽ, cho nên các hãng đều phải cân nhắc rất cẩn thận hoạt động của mình trước những đối thủ cạnh tranh. (Giá tăng thì lượng tăng nhưng phải xem xét các hãng khác. Như OPEC có một nước tăng giá dầu thì các nước khác phản ứng như thế nào?)

+ Hàng rào ngăn cản cao cho nên việc ra nhập thị trường của các hãng mới là cực kỳ khó khăn như vốn, công nghệ.

5.4.2. Đường cầu gẫy khúc và giá cả kém linh hoạt

Trong thị trường độc quyền tập đoàn khi lượng bán của hãng đó tăng lên lập tức lượng bán của các hãng đối thủ sẽ giảm xuống và các hãng đối thủ sẽ nhận thức được ngay vấn đề đó không cần sử dụng tình báo công nghiệp. Vậy các hãng đối thủ sẽ phản ứng ra sao khi trước quyết định của một hãng độc quyền nhóm?

Nếu các hãng tăng giá tất nhiên các hãng đối thủ sẽ không phản ứng gì và đương nhiên hãng sẽ bán được ít hàng hơn theo quy luật cầu và khách hàng của hãng sẽ chuyển sang các hãng đối thủ. Do đó đường cầu sẽ gãy khúc. Như hình 5.18 PA là giá hiện hành; nếu hãng tăng giá sản phẩm lên mức PB thì lượng bán sẽ giảm từ QA đến QB, nếu hãng giảm giá bán xuống mức PD như luật cầu mong đợi lượng bán sẽ tăng lên QD. Tuy nhiên, điều này không bao giờ xảy ra trong thị trường độc quyền nhóm, các hãng đối phương sẽ phản ứng bằng cách cũng làm giảm giá xuống làm cho đường cầu của hãng gấp khúc và chạy từ A đến C.


P

P

B

B

PA

PD

A

D

MR C

0 QB QA QC QD Q


Hình 5.18: Đường cầu gẫy khúc

Như chúng ta đã biết, nếu thị trường là độc quyền thì khoản lợi nhuận thu được là lớn nhất và chính vì vậy mà nhiệm vụ của các nhà độc quyền tập đoàn là phải làm sao đạt được đến mức giá chung đó cho toàn ngành. Điều này là khó khăn vì nó đòi hỏi các hãng phải có

Xem tất cả 215 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí