Đặc Điểm Cơ Bản Của Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương

cá nhân có trách nhiệm kiểm soát đã lạm dụng quyền hạn của mình nhằm phục vụ cho mưu đồ riêng.

­ Hoạt động kiểm soát thường chỉ nhằm vào các nghiệp vụ thường xuyên phát sinh mà ít chú ý đến những nghiệp vụ không thường xuyên, do đó những sai phạm trong các nghiệp vụ này thường hay bị bỏ qua.

­ Những thay đổi của tổ chức, thay đổi quan điểm quản lý và điều kiện hoạt động có thể dẫn đến những thủ tục kiểm soát không còn phù hợp.

­ Ngoài ra, mối quan hệ giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra luôn được xem xét. Một số các thủ tục kiểm soát rất tốt, rất chi tiết, rất chặt chẽ nhưng nó tốn quá nhiều chi phí của đơn vị thì các nhà quản lý sẽ phải so sánh giữa lợi ích thủ tục kiểm soát mang lại và chi phí bỏ ra và nếu không cân xứng thì phải chấp nhận đánh đổi, chấp nhận hạn chế đó.

7.3 Kiểm soát nội bộ quy trình cho vay tại NHTM


7.3.1 Đặc điểm cơ bản của hoạt động cho vay của ngân hàng thương

mại


7.3.1.1 Khái niệm cho vay ngân hàng thương mại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.


Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Có

Kiểm soát nội bộ đối với quy trình cho vay tại Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn – Chi nhánh Huyện Phú Vang - 5

nhiều định nghĩa về cho vay, như:


Theo giáo trình nghiệp vụ NHTM của TS Mai Văn Bạn “ Cho vay của NHTM là việc chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ NHTM (người sở hữu) sang khách hàng vay (người sử dụng) sau một thời gian nhất định quay trở lại NHTM với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Hay có thể hiểu cho vay của NHTM là quan hệ giữa một bên là người cho vay (NHTM) bằng cách chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên người vay (khách hàng vay) để sử dụng trong một thời gian nhất đinh với cam kết của người vay là hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Cho vay là quyền của NHTM. Vì vây NHTM có quyền yêu cầu khách hàng vay phải tuân thủ những điều kiện mang tính pháp lý

nhằm đảm bảo việc trả nợ khi đến hạn.”


Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi (2008): Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể (NHTM và người vay), trong đó một bên (NHTM) chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia (người vay) sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả vốn ( gốc và lãi) cho bên vay vô điều kiện theo thời hạn đã thỏa thuận”.

Trong khoản 14, điều 4 Luật các tổ chức tín dụng (2010): “ Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, các nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”. Tuy nhiên, trong nghiệp vụ tín dụng thì cho vay là hoạt động quan trọng nhất, là hoạt động ảnh hưởng chủ yếu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chiếm tỷ tọng lớn nhất nên thuật ngữ tín dụng và cho vay có thể dùng để thay thế cho nhau.

Theo Nguyễn Minh Kiều (2007): “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định.”

Tín dụng ngân hàng chứa 3 nội dung:


­ Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng;

­ Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính tạm thời;


­ Sự chuyển nhượng này có kèm chi phí.


Tóm lại cho vay, còn gọi là tín dụng, là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất. Do hoạt động này làm phát sinh một khoản nợ nên bên cho vay còn gọi là chủ nợ, bên đi vay gọi là con nợ. Do đó, Tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên - Một bên là người cho vay, và một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho

vay, lãi suất phải trả,..


7.3.1.2 Vai trò của hoạt động tín dung NHTM


Để thực hiện tốt vai trò cho vay của NHTM đối với nền kinh tế thị trường cần 4 yếu tố:

Thứ nhất, Điều hòa vốn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế. Ngân hàng là chiếc cầu nối giữa những người có vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế với những người cần vốn để mở rộng kinh doanh, tiêu dùng. Trên cơ sở huy động vốn trong cư dân hay đi vay các tổ chức kinh tế khác Ngân hàng tiến hành cho vay với các tổ chức cá nhân, tổ chức kinh tế đang cần vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh.

Thứ hai: Tín dụng giúp Ngân hàng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nếu muốn khuyến khích ngành nghề hay thành phần kinh tế nào phát triển, ngân hàng sẽ thực hiện ưu đãi tín dụng với ngành nghề hay khu vực đó. Từ đó, ngân hàng sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp đó dễ dàng tiếp cận được vốn vay ngân hàng, trở thành đòn bẩy để giúp ngành nghề đó phát triển.

Thứ ba: Tín dụng ngân hàng giúp tăng nhanh vòng quay của vốn, giảm lượng tiền mặt lưu thông. Qua đó, tín dụng ngân hàng giúp Nhà nước tăng cường quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thông qua tín dụng, ngân hàng huy động được một lượng lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, thực hiện cho vay, đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà không cần phát hiện thêm tiền mặt.

Thứ tư: Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong xu thế hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các nước trên thế giới và trong khu vực được mở rộng và phát triển đa dạng cả về chiều rộng và chiều sâu. Thực hiện chủ trương mở rộng hợp tác kinh tế, tăng cường các quan hệ đối ngoại do đó đầu tư vốn tín dụng thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa.

7.3.1.3 Các hình thức tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng có thể phân chia thành những tiêu thức phân loại khách nhau:

Theo mục đích: Tín dụng ngân hàng có thể chia thànhcác loạisau:


Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp:là loại chovayngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ;

Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu dùng, đầu tư cơ sở hạ tầng để phục vụ sinh hoạt trong một khu vực dân cư;

Cho vay mua bán bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng nhà ở, đất đai trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ;

Cho vay sản xuất nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng....

Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu;


Cho vay cá nhân;


Cho vay các tổ chức tài chính;


Tài trợ thuê mua và các loại hình cho vay khác.


Theo thời hạn cho vay

Dựa vào thời hạn cho vay, tín dụng NHTM có thể chia thành ba loại sau:


Tín dụng ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, được sử dụng để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động của doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân với các hình thức sau: Chiết khấu, bao thanh toán, cho vay từng lần,… Với loại tín dụng này, ít có rủi ro cho ngân hàng vì ít có biến động xảy ra trong thời gian ngắn và nếu có xảy ra thì ngân hàng có thể dự tính được.

Tín dụng trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì ngân hàng có khả năng dự đoán được những biến động có thể xảy ra.


Tín dụng dài hạn là loại cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên, thường nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư, xây dựng nhà ở. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời gian dài thì có những biến động xảy ra không lường trước được.

Các hình thức tín dụng trung dài hạn là: Cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn, tín dụng tuần hoàn và cho thuê tài chính.

Dựa vào phương thức cho vay, tín dụng ngân hàng có thể phân loại như sau:

Cho vay theo món vay (cho vay từng lần): là quá trình cấp tín dụng trên cơ sở nhu cầu tín dụng của từng đối tượng vay cụ thể.

Cho vay theo hạn mức tín dụng (cho vay luân chuyển): là cam kết cho khách hàng sử dụng một số dư tối đa trong một khoảng thời gian xác định.

Cho vay theo hạn mức thấu chi: là phương thức tài trợ ngắn hạn trong đó ngân hàng cho phép khách hàng được rút tiền vượt quá số dư trên tài khoản vãng lai trong phạm vi số tiền và thời hạn nhất định.

Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, tín dụng ngân hàng có thể chia thành các loại sau:

Cho vay có đảm bảo (hay còn gọi là thế chấp): Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng dựa trên cơ sở có thế chấp tài sản, cầm cố hay bảo lãnh. Tài sản dùng để thế chấp cầm cố có thể là nhà xưởng, xe cộ, các khoản phải thu, các trang thiết bị hay các tài sản hình thành từ vốn vay, vật giá hay giấy tờ có giá. Ngoài ra, để đảm bảo cho khoản vay có thể được thực hiện bằng sự bảo

lãnh của bên thứ ba được Ngân hàng chấp nhận. Mặc dù có tài sản đảm bảo (TSĐB) nhưng hình thức tín dụng này vẫn có độ rủi ro cao vì tài sản có thể bị mất giá hay người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình.

Cho vay không có tài sản đảm bảo (hay còn gọi là tín chấp): là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay. Đây là một loại tín dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì khách hàng có uy tín rất lớn và khả năng trả nợ rất cao thì mới được cấp tín dụng mà không cần bảo đảm.

Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay, tín dụng ngân hàng có thể chia thành các loại sau:

Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn: Khách hàng sẽ trả nợ gốc một lần khi đáo hạn cho ngân hàng, hình thức này được áp dụng cho hình thức vay ngắn hạn.

Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp: khách hàng sẽ trả nợ gốc cho ngân hàng theo định kỳ trả hàng tháng, 3 tháng/lần, 6 tháng/lần…, hình thức này thường áp dụng cho tín dụng trung và dài hạn.

Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể mà tùy khả năng tài chính của khách hàng.

7.3.1.4 Rủi ro tín dụng ngân hàng


Rủi ro lớn nhất trong hoạt động tín dụng là rủi ro tín dụng: là khả nă ng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu khi người vay không trả nợ đúng hạn, không trả hoặc trả không đầy đủ gốc và lãi. Đối với ngân hàng, rủi ro tín dụng vừa mang tính chất khách quan vừa mang tính chất chủ quan. Sự khách quan trong rủi ro tín dụng làm cho nó trở nên không thể loại trừ. Mặt khác, bởi lợi nhuận phần nào cũng là một phần thưởng của rủi ro nên người ta chỉ tìm cách hạn chế rủi ro tới mức có thể chấp nhận được mà thôi. Do đó cần phải có biện pháp giải quyết và phương án dự phòng hữu hiệu, như: xây dựng các chính sách tín dụng, xây dựng quy trình phân tích và thu thập thông

tin tín dụng, hệ thống phân loại xếp hạng.


Rủi ro tín dụng phải được hiểu ở cả hai góc độ: rủi ro trong huy động vốn và rủi ro trong cho vay.

Rủi ro trong huy động vốn được biểu hiện khi nguồn vốn huy động được nhiều nhưng sử dụng ít (ứ đọng vốn); hoặc chi phí huy động vốn cao nhưng cho vay với lãi suất thấp.

Rủi ro trong cho vay là khoản tổn thất phát sinh khi cấp tín dụng cho khách hàng mà chỉ thu được một phần gốc và lãi hoặc thu vốn gốc và lãi không đúng hạn, hoặc không thu được gốc và lãi.

Rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn trong toàn bộ dư nợ cho vay của ngân hàng và gắn liền với khả năng khách hàng không trả được nợ theo hợp đồng. Cụ thể là luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của các ngân hàng có thể không được hoàn trả đẩy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn. Như vậy rủi ro tín dụng có thể phân thành:

Rủi ro mất vốn: Khi khách hàng không hoàn trả một phần hoặc toàn bộ khoản tín dụng.

Rủi ro dẫn đến tổn thất: Khi khách hàng không có khả năng hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi; hoặc chỉ thu được một phần; hoặc không thu được toàn bộ. Rủi ro tín dụng phát sinh từ hai khả năng:

­ Khách hàng không có khả năng trả nợ (vỡ nợ).


­ Các thiệt hại có liên quan đến các bảo đảm tín dụng.


7.3.2 Những vấn về kiểm soát nội bộ quy trình cho vay của ngân hàng thương mại

7.3.2.1 Khái niệm


Quy trình cho vay là tập hợp những nội dung nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một món vay.

Kiểm soát là quá trình giám sát đo lường chấn chỉnh sự việc hiện tượng nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch với hiệu quả cao trong điều kiện môi trường luôn luôn biến đổi.

Kiểm soát là chức năng cuối cùng của quy trình quản lý (một quy trình quản lý gồm 4 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát). Kiểm soát là không thể thiếu được trong quy trình quản lý, nếu việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo làm tốt mà chức năng kiểm soát không được thực hiện hoặc thực hiện không tốt thì kết quả có thể sẽ không đúng như kế hoạch đề ra, hoặc do những biến động của môi trường hoặc do chủ định của những người thực hiện.

Kiểm soát nội bộ là việc kiểm tra mang tính hệ thống toàn bộ quy trình hoạt động của một tổ chức. Quá trình kiểm tra mang tính thường xuyên, trong từng khâu hoạt động nhằm đảm bảo toàn bộ hoạt động thực hiện đồng bộ, đúng pháp luật.

Có thể nói hệ thống kiểm soát nội bộ là một quá trình kiểm soát bao gồm tất cả các hoạt động cụ thể diễn ra thường xuyên hàng ngày như việc tuân thủ pháp luật, chấp hành điều lệ, nghị quyết, quy chế, chế độ tài chính, quản lý tài sản ..., do một tổ chức hoặc cá nhân thực hiện.

Kiếm soát nội bộ NHTM là việc tiến hành kiểm tra thường xuyên liên tục toàn bộ qui trình hoạt động, cũng như từng khâu hoạt động của NHTM nhằm đảm bảo cho NHTM vận hành một cách đồng bộ và đúng pháp luật. Hoạt động của ngân hàng luôn diễn ra trong môi hường biến động, đặc biệt hoạt động cho vay, ngoài ra còn phụ thuộc nhiều vào nhân tố con người (cả CBTD và khách hàng vay vốn) do đó việc kiểm soát lại rất cần thiết.

Ở Việt nam hiện nay chưa có một định nghĩa chính thức nào về kiển soát nội bộ quy trình cho vay vay tại NHTM, từ những lý luận về kiểm soát, kiểm soát nội bộ KSNB, về quy trình cho vay, hoạt động cho vay và tham khảo các ý kiến thì có thể định nghĩa kiển soát cho vay như sau:

Ngày đăng: 27/11/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*