Khủng hoảng tài chính toàn cầu và ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 11

Thứ nhất, miễn hoặc giảm thuế cho nhập khẩu nguyên liệu cho các doanh nghiệp đang phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu hiện tại đang trong tình trạng khó khăn trong thời gian 6 tháng đến 1 năm để doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí đầu vào, từng bước ổn định và phát triển sản xuất.

Thứ hai, hiện nay các doanh nghiệp sản xuất kể cả doanh nghiệp lớn mới đi vào hoạt động được miễn thuế thu nhập 2 năm đầu và giảm 50% với 2 năm tiếp theo. Nhưng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới đi vào hoạt động nên miễn giảm thêm từ 6 tháng đến 1 năm.

Thứ ba, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều nhân công, các doanh nghiệp sử dụng ít vốn nhưng có hàm lượng lao động nhiều như các xí nghiệp dệt may, sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ.

2.1.2. Nhóm giải pháp dài hạn

2.1.2.1. Hỗ trợ xây dựng các vùng cung cấp nguyên liệu lâu dài cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Như chúng ta đã biết, một trong những lý do khiến các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng như các DNVVN nói riêng lại chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là các doanh nghiệp nước ta phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ nước ngoài và giá cả quốc tế. Một khi giá cả quốc tế tăng nhanh tăng nhanh thì hầu như doanh nghiệp không thể có giải pháp thay thế nào để giảm chi phí đầu vào bởi vì nguồn cung nguyên liệu trong nước vừa yếu, vừa thiếu và không ổn định.

Bởi vậy Nhà nước nên có những nghiên cứu cụ thể để có thể cân nhắc và triển khai xây dựng các vùng cung cấp nguyên liệu đầu vào có chất lượng cao và đảm bảo tính ổn định trong dài hạn. Mặc dù các dự án này đỏi hỏi phải có một sự nghiên cứu và tính toán kỹ lưỡng về các vấn đề như địa điểm xây dựng, công nghệ áp dụng, cách thức tổ chức quản lý cũng như chi phí đầu tư nhưng một khi triển khai thành công, nó sẽ phát huy tác dụng rất lớn đối với các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Các doanh nghiệp sẽ

chủ động được phần lớn nguyên liệu đầu vào sản xuất mà không phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Ngoài ra sự ổn định của nguồn cung nguyên liệu đầu vào kể cả về giá và lượng cũng sẽ tạo điều kiện giúp kiểm soát tốt hơn chi phí sản xuất của mình cũng như đề ra những phương án kinh doanh lâu dài. Còn đối với nền kinh tế nó sẽ giúp giảm nhập siêu, ổn định cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ cũng như đảm bảo cho một mức tăng trưởng cao hơn.


2.1.2.2. Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

Đây là một công cụ chính sách quan trọng để thúc đẩy sự phát triển DNVVN. Những quỹ này được thành lập từ các nguồn hỗ trợ của Nhà nước, tín dụng ngân hàng, các trợ giúp từ phía nước ngoài. Ngoài việc đưa ra các điều khoản tín dụng với lãi suất thấp hơn, quỹ hỗ trợ DNVVN còn có thể đưa ra các điều khoản tín dụng đặc biệt như tín dụng để mua sắm và cho thuê máy móc thiết bị để áp dụng công nghệ mới.

Theo kinh nghiệm của một số nước trên Thế giới, có thể thực hiện giải pháp thành lập quỹ hỗ trợ DNVVN thông qua các hình thức sau:

Khủng hoảng tài chính toàn cầu và ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 11

Thứ nhất, thông qua hình thức thành lập công ty đầu tư và tín dụng DNVVN với mục đích khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp mới, trợ giúp việc mở rộng quy mô và hiện đại hóa các doanh nghiệp hiện có. Chức năng của công ty này là cho vay dài hạn và trung hạn (khắc phục được mặt hạn chế của các NHTM là cho vay ngắn hạn). Ngoài ra công ty còn thực hiện việc cầm cố vốn, xác nhận việc phát hành cổ phiếu và giấy vay, cung cấp các dịch vụ tài chính như nợ chậm trả, bán trả dần, nợ tài sản.

Thứ hai, ngoài hình thức thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư cho DNVVN lấy vốn từ ngân sách Nhà nước như đã nói trên, cần thiết phải thành lập quỹ hỗ trợ phát triển các DNVVN từ nguồn viện trợ ODA để tài trợ cho các DNVVN

hoạt động kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu thức quy định và được kiểm toán chặt chẽ.

2.1.2.3. Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Theo công bố của Vụ Tín dụng (NHNN) dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ đến 31/7/2008 của các NHTM đạt 299.472 tỷ đồng (chiếm 27,3% tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế), tăng 16,65% so với 31/12/2007 và tăng 70,5% so với 31/12/2006. Trong đó, cho vay ngắn hạn chiếm 73,05%, cho vay trung và dài hạn chiếm 26,95%. Tuy nhiên, sự phát triển về quy mô tín dụng nói trên cũng chưa tương xứng với tiềm năng, phát triển của các DNVVN. Thiếu vốn vẫn là một trong những vấn đề búc xúc cần được tháo gỡ ngay đối với các DNVVN.

Một trong những nguyên nhân thiếu vốn hiện nay của các DNVVN là khó có thể tiếp cận được với các nguồn vay chính thức do các DNVVN không có khả năng thế chấp. Để giải quyết vấn đề này Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp thông qua việc thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng. Chức năng chủ yếu của quỹ là giúp các DNVVN tiếp cận được vốn vay của ngân hàng trong các trường hợp thiếu tài sản thế chấp, cầm cố ở ngân hàng và những tổ chức tín dụng khác.

Nguồn vốn của quỹ đầu tiên sẽ xuất phát từ nguồn ngân sách và đóng góp của ngân hàng, các hiệp hội tín dụng, các doanh nghiệp và các tổ chức khác. Các quỹ này không chỉ phục vụ cho lợi ích của của các DNVVN mà còn tạo điều kiện cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng yên tâm, làm việc có hiệu quả hơn trong công việc cung cấp tài chính vì rủi ro có thể được chia sẻ. Sự ra đời của quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ giúp cho các DNVVN tiếp cận được các nguồn vay chính thức thay vì dựa vào các khu vực tài chính phi chính thức như hiện nay.

Để tiến tới xây dựng quỹ bảo lãnh đối với DNVVN cần phải có ý kiến đóng góp từ nhiều phía. Qua thực tế khảo sát, nghiên cứu cũng như dựa vào

kinh nghiệm hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng ở một số nước trên thế giới, khóa luận thấy rằng nên hướng vào một số đề xuất sau: Thứ nhất, Nhà nước sẽ cấp vốn ban đầu cho quỹ, sau đó có thể rút dần theo mức tích lũy và sự lớn mạnh của quỹ. Thứ hai, Nhà nước tái bảo lãnh miễn phí ở một số tỷ lệ nào đó (khoảng 50%) số dư bảo lãnh của tổ chức bảo lãnh. Thứ ba, quỹ chỉ bảo lãnh một phần tín dụng thiếu bảo đảm, mà một mức hợp lý 70% phần tiền vay đảm bảo, còn lại 30% ngân hàng cho vay phải gánh chịu. Thứ tư, quỹ không nên có quan hệ trực tiếp với doanh nghiệp vay vốn. Khách hàng của quỹ là các ngân hàng thương mại. Điều này giúp quỹ giảm bớt khối lượng công việc, tương tự sẽ giảm đỡ phí bảo lãnh cho các doanh nghiệp. Và cuối cùng, quỹ không phải là một tổ chức tín dụng hoạt động không vì mục đích lợi nhuận nên không thể chịu sự điều chỉnh khuôn khổ luật các tổ chức tín dụng. Vấn đề đặt ra ở đây là Nhà nước cần có một nghị định riêng điều chỉnh cơ chế hoạt động của quỹ.

2.1.2.4. Giải pháp về mở rộng thị trường và tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sản xuất, kinh doanh

Nói đến hoạt động sản xuất, xuất khẩu của bất kỳ một doanh ghiệp nào không thể không nói đến thị trường đầu ra cho sản phẩm đó. Hiện nay, tiếp cận thị trường đang là vấn đề khó khăn chung cho các doanh nghiệp, trong đó DNVVN lại càng khó khăn hơn.

Thị trường của các DNVVN bao gồm thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Không thể xếp loại thứ tự vị trí thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, thị trường nào quan trọng hơn và thị trường nào ít quan trọng hơn. Nhưng trong bối cảnh hiện nay DNVVN với khả năng vốn hạn hẹp và công nghệ lạc hậu thì việc vươn ra thị trường nước ngoài với quy mô lớn chắc chắn sẽ gặp không ít trở ngại. Do vậy các DNVVN nên đặt mối quan tâm hàng đầu chính là thị trường trong nước và mong muốn có sự can thiệp của Nhà nước. Các biện pháp chống hàng buôn lậu, hàng giả, hàng cấm không được thi hành kịp thời và đúng mức. Đó là chưa nói đến thị trường

trong nước không được bảo hộ, sự ồ ạt xâm nhập thị trường của hàng ngoại, hàng liên doanh, khu chế xuất một cách thái quá đã vô tình cô lập, gạt bỏ hàng hóa của các DNVVN vốn đang thiếu tính cạnh tranh.

Vì vậy để có một chính sách thị trường và cạnh tranh hỗ trợ lành mạnh cho các DNVVN phải có nỗ lực từ hai phía: Nhà nước, cơ quan tư vấn, xúc tiến của tổ chức xã hội và bản thân các doanh nghiệp. Chính sách này trước hết phải đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, không có hiện tượng độc quyền, chiếm lĩnh thị trường theo kiểu cá lớn nuốt cá bé. Và sự hỗ trợ can thiệp của Nhà nước đối với các DNVVN đặc biệt có ý nghĩa trong việc tạo ra sự bình đẳng cho các doanh nghiệp trong một sân chơi chung. Điều quan trọng là biện pháp hỗ trợ phải được thực hiện ngay từ khi khởi sự hoạt động kinh doanh cho đến suốt quá trình kinh doanh cũng tức là tạo sự bình đẳng về cơ hội kinh doanh cho mỗi doanh nghiệp, trợ giúp DNVVN khắc phục những nhược điểm của mình đủ sức vươn lên trong cuộc cạnh tranh bình đẳng trên thị trường.

Đối với thị trường trong nước, trước hết Chính phủ nên tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN tham gia vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng bằng vốn đầu tư từ ngân sách. Ở một số khu vực chi tiêu công cộng ở địa phương, DNVVN là người cung cấp quan trọng. Thứ hai, cần đẩy mạnh chính sách hỗ trợ mối liên kết giữa các doanh nghiệp lớn và các DNVVN, tạo điều kiện cho các DNVVN có thể là vệ tinh cung cấp nguyên vật liệu, bán hàng, sản xuất phụ tùng, phân phối sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn như yêu cầu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất những sản phẩm như ô tô, xe máy phải có tỷ lệ nội địa hóa cao (tăng dần theo thời gian).

Đối với thị trường ngoài nước, thứ nhất DNVVN cần được giúp đỡ về các thủ tục để tiếp cận thị trường ngoài nước như: đơn giản hóa các thủ tục đăng ký kinh doanh, loại bỏ các loại giấy tờ không cần thiết. Thứ hai, cần thực hiện rộng rãi chính sách thưởng xuất khẩu, kể cả sử dụng quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhằm khuyến khích mạnh hơn nữa việc thu hút ngoại tệ về cho đất

nước. Riêng đối với DNVVN, cần phải khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu dù khối lượng ban đầu và số ngoại tệ còn rất ít. Thứ ba, các cơ quan chức năng cần phải giúp đỡ các DNVVN nắm bắt được thông tin, nâng cao hiểu biết về luật lệ thương mại quốc tế để có thể hội nhập một cách sâu rộng hơn với thị trường quốc tế.

2.1.2.4. Giải pháp về công nghệ

Một trong những tồn tại hiện nay trong khu vực DNVVN và là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh kém, đó là công nghệ lạc hậu. Tuy nhiên do nguồn vốn hạn chế các doanh nghiệp không đủ khả năng nhập khẩu các thiết bị có hàm lượng công nghệ cao. Đó dường như là cái vòng luẩn quẩn mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ dường như không thể có cách nào tự khắc phục được. Do vậy, Chính phủ phải có các chính sách hỗ trợ như: bảo lãnh giúp các DNVVN có thể mua được những công nghệ hiện đại từ nước ngoài; khuyến khích và tăng thời gian miễn thuế, giảm thuế đối với các dự án đổi mới công nghệ; các ngân hàng thương mại nên mở rộng các hình thức tín dụng vay trung và dài hạn cho các DNVVN để đổi mới công nghệ, kể cả hình thức cho thuê tài chính.

2.1.2.5. Các giải pháp đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực

Nhìn chung các chủ DNVVN đa phần đều là những người không được qua đào tạo một cách bài bản về các kiến thức kinh tế học cũng như kỹ năng quản lý chuyên nghiệp. Đây là một hạn chế rất lớn trong hoạt động của các DNVVN và cũng lý giải cho một hiện tượng khá phổ biến hiện nay đối với các DNVVN là thành lập nhanh chóng và cũng giải thể nhanh. Các doanh nghiệp chỉ có thể thành công được trong nền kinh tế thị trường chỉ khi đội ngũ lãnh đạo của các doanh nghiệp đó là những doanh nhân sáng tạo, năng động, thích nghi và nhạy bén với từng biến động của thị trường. Do vậy Nhà nước ta cần phải có những chính sách phù hợp để đào tạo đội ngũ quản lý cho khu vực DNVVN như: thành lập các hiệp hội người chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ dưới sự quản lý và giám sát về chuyên môn của các cơ quan hữu quan để họ có môi trường trao đổi, học hỏi những kiến thức cũng như kinh nghiệm quản

lý của nhau; kết hợp với các tổ chức đào tạo kỹ năng quản lý chuyên nghiệp để tổ chức những khóa ngắn hạn đào tạo kỹ năng quản lý cho các chủ doanh nghiệp ngay tại địa phương hoạt động.

Vấn đề đào tạo nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động trong các DNVVN luôn là vấn đề nản giải từ lâu nay. Các DNVVN hoặc là ở trong tình trạng không có khả năng về kinh phí đào tạo lực lượng chuyên môn cho mình hoặc tự bỏ chi phí đào tạo, nhưng nhiều người sau khi được doanh nghiệp đào tạo lại bỏ sang nơi khác làm việc, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước cần có biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở đào tạo thuộc các ngành, địa phương, các Tổng công ty lớn giúp các DNVVN trong đào tạo, huấn luyện nhân lực bằng các hình thức thích hợp. Mặt khác trong văn bản pháp lý về lao động, cần có quy định cụ thể hơn về trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động được doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí đào tạo nhưng không thực hiện cam kết làm việc cho doanh nghiệp theo thỏa thuận.

2.1.2.6. Giải pháp về một môi trường pháp lý lành mạnh cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng

Hiện nay xu thế hội nhập, toàn cầu hóa vẫn đang là xu hướng chủ đạo của nền kinh tế thế giới. Và bất kỳ một nước nào muốn phát triển nền kinh tế của mình thì chắc chắn không thể không có những chiến lược lâu dài để hội nhập ngày càng sâu rộng hơn với nền kinh tế toàn cầu. Chính sách mở cửa nền kinh tế được coi là một kết cục quan trọng, việc nhập khẩu các nguồn vốn và hàng hóa bên ngoài cho phép các doanh nghiệp có thể cải thiện các điều kiện sản xuất một cách đáng kể, xác định lại cơ cấu của nền kinh tế.

Một hệ thống pháp luật được cải thiện tốt hơn (ví dụ như giảm thuế thu nhập, giá thuế đất hợp lý, quyền được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài) chắc chắn sẽ tạo ra các điều kiện ưu đãi hơn cho dòng vốn đi vào. Một hành lang pháp lý thông thoáng với các thủ tục hành chính gọn nhẹ cũng như nhiều chính sách ưu đãi sẽ là một đòn bẩy vô cùng hiệu quả giúp các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung trở nên năng động hơn cũng như tạo tiền

đề vô cùng quan trọng để tận dụng các nguồn lực trong nước cũng như ngoài nước một cách hiệu quả nhất.

2.2. Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ

2.2.1. Nhóm giải pháp ngắn hạn

2.2.1.1. Tiết kiệm các chi phí môt cách triệt để

Trong giai đoạn khó khăn hiện tại, khi chi phí đầu vào quá cao là mối lo lớn nhất đối với việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN thì giải pháp cần kíp nhất là doanh nghiệp phải tiết kiệm các chi phí một cách triệt để. Doanh nghiệp cần phải cắt giảm mọi khoản chi tiêu không cần thiết, phát động phong trào tiết kiệm trong mọi bộ phận, cán bộ công nhân viên trong tổ chức. Bên cạnh đó là việc rà soát lại tình hình nhân sự để tinh giản bộ máy, giảm bớt một số lao động thừa, không cần thiết. Nhiều doanh nghiệp có thể triển khai việc chuyển ca làm việc từ giờ cao điểm sang giờ khác để tiết kiệm điện, sử dụng phương tiện tin học để trao đổi trong công việc, hạn chế hội họp.

2.2.1.2. Sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả

Gốc của nước là dân, gốc của doanh nghiệp là người lao động, nước sống nhờ dân, công ty tồn tại nhờ người lao động, nhất là trong thời kỳ khó khăn. Doanh nghiệp có thể cắt giảm nguồn nhân lực, nhưng phải có chọn lọc và hết sức cẩn thận, hoặc thực hiện chính sách chuyển đổi hợp đồng lao động phù hợp như chuyển một số nhân viên chính thức thành nhân viên tạm thời hay cộng tác viên, giúp cho công ty có thể cắt giảm nguồn chi phí.

Doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới đời sống, tâm lý của nhân viên hơn, tạo sự yên tâm, tin tưởng của nhân viên vì trong nhân viên xuất hiện tư tưởng chán nản do sợ bị mất việc và tiền lương thực tế giảm. Doanh nghiệp có thể gắn kết nhân viên với mình bằng những yếu tố ngoài tiền lương, như văn hóa doanh nghiệp, môi trường làm việc. Trong thời kỳ khó khăn, những yếu tố này cần được sử dụng triệt để.

Xem tất cả 100 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí