Nghiên Cứu Tiếp Tục Hoàn Thiện Hệ Thống Văn Bản Chính Sách Hướng Dẫn Triển Khai Basel Ii

ngân hàng, sự tồn tại của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập được Chính phủ công nhận ở Việt Nam sẽ giúp tiết kiệm chi phí đáng kể và hỗ trợ lớn trong quá trình thẩm định, đánh giá và quyết định tín dụng khách hàng. Từ đó, NHNN có thể tiến tới sử dụng xếp hạng tín nhiệm độc lập rộng rãi hơn trong các biện pháp quản lý đối với thị trường, như đo lường an toàn vốn, giám sát tín dụng toàn ngành…

3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước


3.3.2.1. Nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản chính sách hướng dẫn triển khai Basel II

Hiện nay, NHNN đã ban hành Thông tư 41 theo đó yêu cầu các ngân hàng phải có đủ mức Vốn tự có để đáp ứng các yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn theo trụ cột 1 của Basel II và sau đó là Thông tư 13 Quy định hệ thống Kiểm soát nội bộ tại các NHTM. Thông tư 13 đưa ra các yêu cầu cơ bản quy định đối với hệ thống kiểm soát nội bộ của các TCTD, trong đó có các yêu cầu về quy định tối thiểu đối với QLRR tại các TCTD và tính toán vốn cho các RR còn lại tại trụ cột 2 của Basel II. Thông tư này ra đời đã đưa ra các yêu cầu cơ bản đối với các NHTM để triển khai đầy đủ các thông lệ quốc tế về QLRR (tuân thủ cả 03 trụ cột theo Basel II). Các quy định này đã bao gồm các công việc và yêu cầu liên quan tới nội dung đánh giá sự đầy đủ vốn nội bộ (ICAAP). Các TCTD cần có quy định về mô hình tổ chức (quy định về ba vòng kiểm soát của Basel II), các cơ chế QLRR và yêu cầu về sự giám sát của quản lý cấp cao. Thông tư 41 và Thông tư 13 là bước hoàn thiện trong các yêu cầu của cơ quan quản lý đối với hoạt động QLRR và quản lý an toàn vốn khi đưa ra các yêu cầu quy định tại trụ cột 1, 2 và 3 của Basel II.

Tuy nhiên, Thông tư 41 và Thông tư 13 mới chỉ được triển khai theo các phương pháp chuẩn hóa của Basel II để tính toán ra RWA của các RR của ngân hàng, đặc biệt là RWA đối với RRTD, RR trọng yếu chiếm hơn 90% tổng RWA của phần lớn các NHTM tại Việt Nam. Việc áp dụng phương pháp chuẩn hóa mặc dù tương đối đơn giản, dễ triển khai, theo dõi giám sát từ phía NHNN, tuy nhiên có những hạn chế khi không phù hợp với đặc thù RR của từng ngân hàng, do vậy ước lượng về vốn tự có để duy trì tỷ lệ CAR có thể không chính xác với đặc thù RR của từng ngân hàng. Việc áp dụng

triển khai theo phương pháp chuẩn hóa cũng không khuyến khích các ngân hàng đầu tư vào việc xây dựng các mô hình đo lường RR nội bộ phù hợp với đặc tính RR của mỗi ngân hàng, qua đó tính toán chính xác về lượng vốn cần duy trì, tối ưu hóa về vốn đối với mỗi ngân hàng nói riêng và tổng thể ngành ngân hàng và nền kinh tế nói riêng. Mô hình đo lường RR nội bộ chính là việc ứng dụng triển khai Basel II một cách đầy đủ, theo các nền tảng phương pháp nâng cao hơn, mà lợi ích của việc này không chỉ tốt cho các ngân hàng mà cả nền kinh tế. Việc triển khai các mô hình đo lường RR nội bộ sẽ giúp các ngân hàng đo lường chính xác hơn RR của mình, với những đặc thù RR riêng có của mỗi ngân hàng, trên dữ liệu của chính ngân hàng mình, qua đó cũng giúp ngân hàng đẩy mạnh các ứng dụng mô hình đo lường RR nội bộ vào công tác định giá trên cơ sở RR, lập kế hoạch, đánh giá hiệu quả trên cơ sở RR, xây dựng cơ chế chính sách, thẩm quyền tín dụng trên cơ sở RR … Do vậy, Thông tư 41 cũng như Thông tư 13 cần tiếp tục được cập nhật chỉnh sửa để đưa ra các yêu cầu triển khai theo các phương pháp nội bộ nâng cao của Basel II để mang lại những lợi ích không chỉ đối với QLRR ngân hàng, mà còn giúp hoạt động kinh doanh mỗi ngân hàng phát triển vững chắc hơn, đáp ứng những thách thức ngày càng lớn, thay đổi nhanh chóng từ môi trường kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đối diện với nhiều thách thức từ xu hướng toàn cầu hóa, thay đổi địa chính trị ở nhiều quốc gia, cường quốc kinh tế, và tác động từ những biến động chưa từng có trong lịch sử cận hiện đại như dịch Covid 19 đang bùng phát trên phạm vi toàn cầu hiện nay.

Hiện nay một số ngân hàng đã nghiên cứu áp dụng các phương pháp đo lường nội bộ/nâng cao, tuy nhiên NHNN chưa ban hành quy định và có cơ chế phê duyệt mô hình nội bộ của các NHTM như NHTW tại các nước phát triển. Một số yêu cầu về tính toán vốn đối với các RR trọng yếu tại trụ cột 2 cũng cần có những hướng dẫn cụ thể hơn đảm bảo định hướng cho mỗi ngân hàng trong việc tính toán, xác định mức vốn kinh tế phù hợp khi xây dựng Quy trình ICAAP cho mỗi ngân hàng. Các kịch bản Kiểm thử sức căng từ các biến động nền kinh tế cũng cần có những hướng dẫn từ phía NHNN để đảm bảo các ngân hàng thực hiện kiểm thử sức căng về khả năng chống chịu RR của mỗi ngân hàng phù hợp, tính đến đầy đủ các yếu tố biến động RR có thể có của nền kinh tế đối với hoạt động mỗi ngân hàng, qua đó có mức dự phòng dự trữ về vốn đủ đáp ứng

cho các biến động này, và có sự tương đồng, công bằng trong tiêu chuẩn xác định mức vốn này đối với các ngân hàng.

3.3.2.2. Nâng cao năng lực giám sát về quản lý rủi ro và an toàn vốn Khung đánh giá an toàn vốn nội bộ theo Basel II của các ngân hàng thương mại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.

Tăng cường hoạt động giám sát ngân hàng thông qua việc sử dụng hệ thống thông tin, báo cáo để thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin về đối tượng giám sát ngân hàng nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các RR gây mất an toàn, vi phạm an toàn hoạt động.

Bên cạnh giám sát và can thiệp kịp thời vào các TCTD có sự suy giảm trong các chỉ tiêu chính như chỉ tiêu thanh khoản hay chỉ tiêu an toàn vốn, NHNN cần có sự giám sát toàn diện, hoàn chỉnh trên cơ sở các yêu cầu của các thông tư liên quan đến các quy định tối thiểu về QLRR theo Basel II. Ví dụ, cần có sự giám sát tuân thủ và tính hiệu lực của việc triển khai ba vòng kiểm soát tại các TCTD; thực tế triển khai chiến lược kinh doanh, chiến lược RR của từng TCTD trong từng thời kỳ; các mô hình đo lường RR và tính toán vốn của ngân hàng... Nội dung về kiểm tra sức chịu đựng (stress-test) cũng cần được NHNN đưa vào kế hoạch kiểm tra định kỳ đối với các TCTD do tại các thị trường phát triển đây là một bài kiểm tra trọng yếu.

Khung đánh giá an toàn vốn nội bộ ICAAP của Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - 23

Những nội dung cần giám sát trên cơ sở ICAAP là biện pháp để nâng cao sự an toàn của hệ thống, hỗ trợ các TCTD QLRR hiệu quả và toàn diện hơn, đưa toàn bộ hệ thống tiến đến thông lệ tốt hơn.

Ngoài ra, NHNN cần đào tạo được đội ngũ thanh tra giám sát đủ trình độ chuyên môn về QLRR theo chuẩn quốc tế, về Basel II và quy trình đánh giá an toàn vốn ICAAP; thường xuyên đào tạo và cử đi tập huấn nước ngoài để nâng cao kiến thức về thông lệ QLRR quốc tế và học hỏi kinh nghiệm đánh giá, thanh kiểm tra của các ngân hàng trên thế giới liên quan đến lĩnh vực chuyên môn đảm nhiệm. Trên cơ sở đó, có thể truyền thông và tập huấn lại cho các NHTM để đảm bảo việc thực hiện Basel II và quy trình ICAAP được hiệu quả và đúng chuẩn.

3.3.2.3. Có cơ chế khuyến khích, tạo động lực cho các Ngân hàng thương mại tuân thủ, triển khai hoàn thiện sớm Khung đánh giá an toàn vốn nội bộ

NHNN cần tạo môi trường bình đẳng, công bằng giữa các NHTM trong triển khai ICAAP. Theo đó, cần có cơ chế tạo động lực khuyến khích việc công khai, minh bạch các thông tin về QLRR trong hoạt động ngân hàng. Tổ chức đánh giá xếp loại các NHTM thông qua việc đánh giá tiến độ, quá trình thực hiện triển khai Basel II, ICAAP, công bố với các tổ chức xếp hạng quốc tế và phương tiện thông tin đại chúng.

Ngoài ra, để khuyến khích, tạo động lực cho các NHTM tuân thủ, triển khai ICAAP, NHNN cần có những cơ chế khuyến khích đối với NHTM triển khai thành công Basel II cũng như ICAAP, chẳng hạn: phân loại áp dụng hệ số an toàn vốn CAR giữa các NHTM sớm triển khai thành công Basel II, ICAAP với các ngân hàng còn lại. Theo đó đối với những ngân hàng chưa triển khai, chưa thành công cần áp dụng hệ số CAR cao hơn (phản ánh thực trạng khả năng QLRR của các NHTM đó); triển khai thành công Basel II, ICAAP là điều kiện ưu tiên trong xem xét cấp phép mở chi nhánh, phòng giao dịch hay áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng cho NHTM…

3.3.2.4. Hoàn thiện các biện pháp, hành động khi Ngân hàng thương mại có sự suy giảm an toàn vốn

NHNN cần tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát, đặc biệt là thanh tra, giám sát trên cơ sở RR. Một số nguyên tắc trong thanh tra, giám sát bao gồm:

- Tăng cường giám sát tuân theo quy định của pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, công khai, kịp thời; không làm cản trở hoạt động của đối tượng được giám sát;

- Kết hợp giám sát an toàn vi mô (bao gồm giám sát với các RR cụ thể như RRTD, RRTT, RRHĐ, RRTK, RR danh tiếng, RR chiến lược… và hoạt động đầu tư, kinh doanh) với giám sát an toàn vĩ mô (bao gồm nhận diện, đánh giá thực trạng, xu hướng, mức độ RR và tác động có khả năng xảy ra đối với nhóm và toàn bộ hệ thống các TCTD; và đánh giá, kiểm tra sức chịu đựng trước các thay đổi chính sách và môi trường kinh tế

vĩ mô đối với nhóm và toàn bộ hệ thống các TCTD, tiêu chí phân nhóm có thể theo mức độ ảnh hưởng của TCTD tới hệ thống, hoặc theo loại hình sở hữu);

- Giám sát phải được thực hiện thường xuyên, liên tục đối với toàn bộ hoạt động của đối tượng được giám sát;

- Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động giám sát ngân hàng và hoạt động thanh tra ngân hàng; giữa hoạt động giám sát ngân hàng và hoạt động cấp, bổ sung, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng;

- Đối với các ngân hàng có sự suy giảm an toàn vốn, NHNN cần có các biện pháp can thiệp sớm kịp thời, bảo đảm duy trì được hoạt động của TCTD và ngăn chặn RR hệ thống không xảy ra. Một số biện pháp theo thông lệ quốc tế như sau: thu hẹp phạm vi hoạt động, hạn chế các giao dịch lớn; tăng vốn điều lệ, vốn được cấp; tăng cường nắm giữ tài sản có tính thanh khoản cao; bán, chuyển nhượng tài sản và thực hiện các giải pháp khác để đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng; hạn chế chi trả cổ tức, phân phối lợi nhuận; cắt giảm chi phí hoạt động, chi phí quản lý; hạn chế trả thù lao, lương, thưởng đối với người quản lý, người điều hành; tăng cường QLRR; tổ chức lại bộ máy quản lý, cắt giảm nhân sự.

3.3.2.5. Hỗ trợ các Ngân hàng thương mại Nhà nước tăng cường năng lực về vốn


VietinBank đã đáp ứng tuân thủ Thông tư 41 và Thông tư 13 từ ngày 01/01/2020, tuy nhiên, quy định tại các thông tư này mới chỉ yêu cầu các ngân hàng tuân thủ trụ cột 1 và trụ cột 2 – Basel II theo phương pháp đo lường tiêu chuẩn/cơ bản. Để đáp ứng hoàn toàn tiêu chuẩn Basel II với các phương pháp nội bộ/nâng cao, VietinBank cần tiếp tục tăng cường năng lực về vốn tự có để có đủ năng lực chống đỡ với không chỉ 3 RR trọng yếu được nêu tại trụ cột 1 mà còn các RR khác được ngân hàng nhận diện là trọng yếu nhằm tuân thủ trụ cột 2 của Basel II; hay yêu cầu từ quy trình ICAAP xác định đầy đủ vốn nội bộ của ngân hàng ngay cả trong những trường hợp các kịch bản khủng hoảng, căng thẳng xảy ra ở quy mô tác động riêng với VietinBank hoặc với toàn nền kinh tế. Bên cạnh đó, vốn tự có còn phải đảm bảo phù hợp với tốc độ tăng trưởng tín dụng, hoạt động kinh doanh hàng năm của ngân hàng, đảm bảo VietinBank với vai trò một ngân

hàng trụ cột chủ lực trong nền kinh tế có thể đảm bảo năng lực tài chính cung ứng vốn tín dụng cho sự phát triển của các ngành nghề, lĩnh vực, địa phương và các doanh nghiệp chủ chốt trong nền kinh tế, qua đó thúc đẩy kinh tế phát triển.

Bên cạnh lợi nhuận để lại hàng năm, thì việc bổ sung vốn tự có từ các cơ quan quản lý và/hoặc từ việc huy động từ các nguồn lực bên ngoài là rất cần thiết để đáp ứng tốc độ tăng trưởng nhanh của ngân hàng, nền kinh tế cũng như các yêu cầu ngày càng chặt chẽ hơn về tỷ lệ an toàn vốn từ NHNN. Hiện nay VietinBank đã trình NHNN lộ trình tổng thể phê duyệt tăng vốn tự có của VietinBank qua các giải pháp từ lợi nhuận giữ lại, huy động thêm nguồn lực từ cổ đông bên ngoài hay các giải pháp tăng vốn tự có từ nguồn lực của Nhà nước và một số giải pháp đã được Chính Phủ, NHNN phê duyệt triển khai như giữ lại lợi nhuận các năm 2017-2019 để tăng vốn tự có. Tuy nhiên, để đáp ứng đủ nguồn lực phục vụ cho các nhu cầu nói trên, trong thời gian tới VietinBank rất cần tiếp tục được NHNN phê duyệt triển khai tổng thể các giải pháp khác để tăng cường nguồn lực vốn tự có của ngân hàng.

KẾT LUẬN

Đối với hoạt động kinh doanh tại NHTM, ICAAP có vai trò gắn kết công tác quản trị vốn với QLRR trong ngân hàng và hỗ trợ ngân hàng trong việc đưa ra các quyết định kinh doanh; nhận biết về mức độ phù hợp giữa vốn kinh tế với hồ sơ RR chung của ngân hàng và môi trường kinh doanh; thiết lập và duy trì mối quan hệ giữa RR và vốn, đồng thời gắn chặt hiệu quả hoạt động kinh doanh vào cả RR và vốn. ICAAP được quy định tại trụ cột 2 của Basel II được coi như một thành phần quan trọng của quá trình quản lý và phải được gắn liền vào quá trình kinh doanh và tổ chức của ngân hàng.

Với vai trò quan trọng như vậy, nhiều ngân hàng trên thế giới đã triển khai ICAAP theo chuẩn Basel II cho dù họ phải đối mặt với không ít khó khăn từ điều kiện vĩ mô, hành lang pháp lý cũng như chi phí đầu tư rất cao (số tiền phải chi để triển khai Basel II tại các ngân hàng tại Mỹ năm 2004 vào khoảng từ 25 triệu USD đến 50 triệu USD). Một số quốc gia được xem là điển hình trong triển khai ICAAP được lựa chọn nghiên cứu phải kể đến là Đức, Nhật, Nga, Hungary, một số quốc gia Châu Âu.

Tại Việt Nam, Thông tư 41, Thông tư 13 là một bước thay đổi lớn trong việc yêu cầu các ngân hàng tại Việt Nam triển khai theo phương pháp chuẩn hóa của Basel II, theo đó yêu cầu các NHTM triển khai xây dựng hệ thống đo lường RR và tính toán vốn kinh tế (ICAAP) theo chuẩn mực Basel II. Đến nay, có 18 ngân hàng đạt chuẩn Basel II ở mức cơ bản theo quy định tại Thông tư 41, trong đó có có 6 ngân hàng đã hoàn thành 3 trụ cột Basel II. Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, công tác xây dựng ICAAP tại trụ cột 2 của Basel II được xem là khó thực hiện nhất, đòi hỏi yêu cầu đầy đủ về vốn, công nghệ, dữ liệu và nhân lực.

Là một trong những ngân hàng đầu ngành trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, VietinBank đã bắt đầu triển khai dự án Basel II từ năm 2013, trong đó có chú trọng việc xây dựng ICAAP. Cho đến nay, VietinBank đã đáp ứng được các quy định về đo lường RR và tính toán vốn kinh tế nói riêng cũng như các yêu cầu về QLRR nói chung của NHNN. Tuy nhiên, VietinBank hiện vẫn còn khoảng cách và đang tiếp tục nghiên cứu để tiến tới áp dụng các tiêu chuẩn đo lường RR và tính toán vốn kinh tế cao hơn (theo phương pháp nội bộ/nâng cao) của Basel II. Đây cũng là vấn đề chung của nhiều NHTM tại Việt Nam hiện nay.

Thực hiện mục tiêu, nội dung, phạm vi nghiên cứu, luận án đã hoàn thành các vấn đề chính sau:

- Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về ICAAP, bao gồm: khái niệm, mục tiêu, nội dung, phương pháp đo lường ICAAP tại NHTM.

- Nghiên cứu kinh nghiệm về triển khai ICAAP tại một số NHTW và NHTM trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.

- Phân tích làm rõ thực trạng triển khai ICAAP tại VietinBank trong giai đoạn 2016 - 2020, qua đó làm rõ các kết quả đạt được, những mặt còn hạn chế.

- Nhận diện những điểm khác biệt giữa công tác xây dựng ICAAP tại VietinBank so với yêu cầu đề ra theo thông lệ quốc tế Basel II.

- Sau khi nêu lên định hướng phát triển của VietinBank, tác giả đề xuất nhóm giải pháp cho VietinBank và kiến nghị cho Chính Phủ và NHNN.

Việc triển khai ICAAP không chỉ xuất phát từ yêu cầu quản lý thị trường của NHTW/Cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng, hơn hết, đây là yêu cầu tất yếu nhằm bảo đảm lợi ích tối đa của bản thân ngân hàng và các bên liên quan. Mục tiêu quan trọng của ICAAP chính là sự cân bằng giữa khả năng kiểm soát tài chính và khả năng kiểm soát RR. Từ đó, ngân hàng đảm bảo hoạt động kinh doanh liên tục, nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường năng lực cạnh tranh với các ngân hàng khác trong và ngoài nước. Đây cũng chính là mục tiêu then chốt mà VietinBank đang hướng tới trong quá trình xây dựng và triển khai ICAAP.

Xem tất cả 212 trang.

Ngày đăng: 15/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí