KHẢO SÁT NHANH CÁC LOẠI HÌNH CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH VÀ SẢN PHẨM GIAO DỊCH MỚI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM - 2

Trên thị trường phi chính thức, bên các hai loại CKPS đã được các trung gian tài chính thực hiện còn phải kể tới các sản phẩm có tính chất như chứng khoán phái sinh (đều trao cho người nắm giữ quyền hoặc nghĩa vụ mua hoặc bán một loại chứng khoán trong tương lai) đó là: Thỏa thuận mua lại (Repo), giao dịch ký quỹ (Margin), bán khống (Short sales)

Thứ nhất, thỏa thuận mua lại (Repo)


Trên TTCK Việt Nam, hoạt động Repo chứng khoán bắt đầu phát triển vào năm 2006-2007. Tuy nhiên, trước bối cảnh khó khăn của TTCK Việt Nam, sự giảm điểm liên tục của VN-Index trong nửa cuối năm 2008 và nửa đầu năm 2009 đã khiến hoạt động Repo giảm sút và ngưng trệ.1

Giai đoạn hiện tại khi TTCK tự do OTC đang ở giai đoạn trầm lặng thì Repo đang nổi lên như một cơ chế linh hoạt để tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu. “…cuối năm 2010 giới đầu tư Hà Nội rộ lên việc tìm mua cổ phiếu CTCP Đầu tư phát triển đa quốc gia (IDI), sau khi có thông tin công ty này sẽ chào sàn trong quý III trên HoSE, với giá 36.000 VND/1 cổ phiếu. Trên thị trường, giá cổ phiếu này giao dịch ở mức 23.000 VND/1 cổ phiếu, được repo với giá 13.000 VND/1 cổ phiếu. Cổ phiếu CTCP Bất động sản Eximbank giao dịch ở mức

15.000 VND/1 cổ phiếu, được repo với giá 12.000 VND/1 cổ phiếu. Cổ phiếu CTCP Đầu tư PVIF giao dịch ở mức 14.300 VND/1 cổ phiếu, được repo với giá 10.000 VND/1 cổ phiếu. Trước khi niêm yết, cổ phiếu QCG của CTCP Quốc Cường Gia Lai được CTCK VNDirect repo với mức giá khá cao. Khi đó, giá cổ phiếu này giao dịch trên thị trường tự do ở mức

50.000 VND/1 cổ phiếu thì nhà đầu tư chỉ phải bỏ ra 15.000 VND/CP để mua, vì được CTCK hỗ trợ vốn 35.000 VND/1 cổ phiếu”2.

Hỗ trợ cho nghiệp vụ repo cổ phiếu OTC thường là các CTCK có được sự hậu thuẫn từ phía các ngân hàng lớn như CTCK Sài Gòn - Hà Nội (SHS), CTCK An Bình, CTCK Sacombank (SBS), CTCK Sài Gòn (SSI)… Tùy mỗi CTCK, nhưng tiêu chí hàng đầu cho việc lựa chọn cổ phiếu được Repo là doanh nghiệp phải có lợi nhuận, thanh khoản cao và có lộ trình niêm yết rõ ràng. Nhiều CTCK ưu tiên Repo cổ phiếu ngân hàng khi giá các cổ phiếu này hiện đang ở mức thấp, khiến việc Repo an toàn. “Tại CTCK SHS, giá Repo không vượt

quá 40% thị giá của cổ phiếu (theo đánh giá của SHS), đồng thời không vượt quá 2 lần mệnh giá của cổ phiếu đó. Kỳ hạn repo tối đa 6 tháng3


1 Khánh Hạ, “Dịch vụ cầm cố chứng khoán và repo chứng khoán”, tc Chứng khoán Việt Nam số 8, 8/2009

2 Nguyên Thành, “OTC, sống nhờ repo”Báo đầu tư chứng khoán, 2010, số 100, tr.18

3 nt

Hộp 3: Định nghĩa về Repo chứng khoán


Thỏa thuận mua lại (Repurchase agreements): Trong thỏa thuận này có một người đi vay (người bán công cụ chứng khoán/người vay tiền) bán chứng khoán chứng khoán nhằm mục đích vay tiền từ một người cho vay (người mua công cụ chứng khoán/người cung cấp tiền); và người đi vay thỏa thuận sẽ mua lại những chứng khoán trên vào một thời gian sau đó. Lãi suất Repo là chênh lệnh giữa lượng tiền đã vay và lượng tiền trả lại, được tính bằng đơn vị phần trăm.

Nguồn: Nguyễn Hoàng, “Repo chứng khoán”, Tạp chí CKVN, số 12, tháng 12/2008

Repurchase agreements: Thỏa thuận thường được lập cho các giao dịch chứng khoán Chính phủ Mỹ giữa một bên bán và một bên mua, theo đó bên bán đồng ý mua lại chứng khoán với giá đã được thống nhất từ trước và thường là vào một thời điểm đã được ấn định. Các hợp đồng mua lại được sử dụng rộng rãi như một phương tiện đầu tư trên thị trường tiền tệ và cũng là một công cụ thực thị chính sách tiền tệ của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED).

Nguồn: Thuật ngữ chứng khoán Anh – Việt, Trung tâm NCKH-ĐTCK (2010), trang 487


Trên thị trường thế giới, một loại hình giao dịch cũng khá gần với giao dịch repo là giao dịch Bán/Mua lại. Đây là hình thức kết hợp giữa một giao dịch bán ngay và một giao dịch mua lại có kỳ hạn (trong tương lai) đối với một chứng khoán. Động lực chủ yếu của giao dịch Bán/Mua lại nhìn chung giống như với hình thức repo truyền thống, tức là cố gắng kiếm lợi nhuận từ lãi suất phải trả thấp hơn áp dụng cho các khoản thế chấp so với đi vay mà không có đảm bảo. Tính kinh tế của giao dịch này cũng tương tự như với repo truyền thống bởi vì lãi suất tính trên khoản tiền vay thông qua giao dịch bán/mua lại được mặc định đã bao gồm trong chênh lệch giữa giá bán ra và giá mua lại.

Tuy nhiên, có một số khác nhau giữa repo và giao dịch bán/mua lại. Một repo về mặt kỹ thuật là một giao dịch đơn nhất trong khi giao dịch bán/mua lại là một cặp gồm hai giao dịch (giao dịch bán/giao dịch mua). Hơn nữa, một giao dịch bán/mua lại không đòi hỏi bất kỳ văn bản pháp lý đặc biệt nào trong khi repo nhìn chung cần có một thỏa thuận khung giữa hai bên. Thanh toán lãi coupon của trái phiếu trong một giao dịch bán/mua lại cũng được chuyển lại người bán chứng khoán dưới hình thức điều chỉnh khoản tiền phải trả khi giao dịch đáo hạn. Trong khi đó, khoản coupon này sẽ được chuyển trả lại ngay cho người bán chứng khoán trong giao dịch repo.

Trên thị trường chứng khoán Việt Nam, có nhiều công ty chứng khoán đã thực hiện loại hình giao dịch repo với nhà đầu tư với những cách giải thích không thống nhất và cách hiểu khác nhau về điều kiện hợp đồng. Tuy nhiên về bản chất, có thể nhận thấy đây là giao dịch cho vay tiền thông qua hợp đồng mua bán kỳ hạn cổ phiếu. Phương thức thực hiện có một số điểm chung như sau:

- Hai bên hợp đồng là nhà đầu tư và CTCK . Nhà đầu tư ký hợp đồng mua bán có kỳ hạn với một CTCK với điều khoản bán cổ phiếu cho CTCK theo giá thỏa thuận, thông thường từ 30- 65% so với giá thị trường của cổ phiếu.

- Khi đến hạn, nhà đầu tư mua lại số cổ phiếu này với giá bằng giá bán đã cộng với một khoản phí gọi là “lãi suất repo” tính trên tổng giá trị khoản mua bán và thông thường tương đương với lãi suất cho vay của ngân hàng (có công ty tính với một cách khác là giá mua lại với giá cao hơn giá bán ban đầu: và chênh lệch giữa hai giá này được coi là lãi suất repo)

- Trường hợp giá cổ phiếu giảm quá đến một tỷ lệ nào đó (thông thường 20%), CTCK có quyền nắm giữ và bán cổ phiếu (thanh lý) để thu hồi vốn. Nếu giá bán thấp hơn giá đã mua thì nhà đầu tư phải nộp bù cho CTCK; ngược lại, nếu giá bán cao hơn giá của công ty đã mua của nhà đầu tư theo hợp đồng trước đó thì khoản chênh lệch này được trả lại cho nhà đầu tư.

- Mọi quyền lợi liên quan đến cổ phiếu trong thời hạn hợp đồng vẫn thuộc về nhà đầu tư (cổ tức nếu nhận được sẽ được CTCK khấu trừ khi nhà đầu tư thực hiện mua lại).

Như vậy, giao dịch “repo” ở Việt Nam gần với hình thức giao dịch Bán/Mua lại cổ phiếu như đã nêu ở trên hơn so với giao dịch repo hiện đại, mặc dù có điểm khác biệt với giao dịch Bán/Mua lại là đa số “repo” ở Việt Nam không có sự khác nhau giữa giá bán ban đầu và giá mua lại cổ phiếu. Xét về mặt lãi suất trong loại giao dịch “repo” này, nhà đầu tư chỉ có thể vay tiền với mức lãi suất tương đương lãi suất ngân hàng; tuy nhiên trên thực tế trong những giai đoạn thị trường cổ phiếu bùng nổ thì đây thực sự là những “đòn bẩy” tài chính hiệu quả giúp nhà đầu tư huy động vốn nhanh chóng nhằm mục tiêu lợi nhuận từ các khoản đầu tư trên thị trường; đồng thời có thể đáp ứng nhu cầu vốn của nhà đầu tư mà không cần phải bán đi chứng khoán. Một điểm lưu ý khác nữa là so với thông lệ quốc tế, công cụ chứng khoán cơ sở ở đây là cổ phiếu, khác với trái phiếu trong một giao dịch repo điển hình ở các nước khác.

Thứ hai, giao dịch ký quỹ (Margin)

Trong giai đoạn 2009 -2010, giao dịch ký quỹ không còn xa lạ với nhà đầu tư dù về mặt nguyên tắc UBCKNN vẫn chưa cho phép thực hiện. Khá nhiều các công ty chứng khoán đã có nguồn thu khá lớn thì hoạt động này. “Báo cáo kết quả kinh doanh quý III/2010” của khối các CTCK cho thấy sự tăng trưởng của tỷ lệ doanh thu khác/tổng doanh thu. Như tại CTCK Kim Long, tỷ lệ này là 67,16%, tại CTCK VN Direct là 57,1%, tại CTCK Tp. HCM là 56,17%, tại CTCK Agriseco là 55,86%. Doanh thu khác phần lớn có nguồn gốc từ các thu

nhập ngoài phí giao dịch trong mảng môi giới, như lãi các hợp đồng ký quỹ, ứng trước tiền bán chứng khoán, Repo, ủy thác”4.

Thực tế trên giấy tờ, các gói sản phẩm giao dịch ký quỹ được thể hiện như một dịch vụ tư vấn đầu tư, hợp tác giữa hai bên CTCK và nhà đầu tư theo một danh mục cổ phiếu quy định, với tỷ lệ đòn bẩy phổ biến từ 50:50 đến 20:80 thậm chí còn cao hơn, tùy theo loại cổ phiếu và khả năng của CTCK. Tuy nhiên về bản chất, CTCK đang cung cấp tín dụng cho nhà đầu tư đòn bẩy tài chính và được hưởng lãi suất5.

Khảo sát trên các website của các CTCK hiện nay (đặc biệt là các CTCK nằm trong top 10 của hai SGDCK quí I/2011) có thể thấy khá nhiều các công ty thực hiện hoạt động giao dịch ký quỹ như: CTCK Bảo Việt (BVSC), CTCK Ngân hàng Đông Á (DAS), CTCK (FPTS), CTCK Sài Gòn (SSI), CTCK Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (SBS), CTCK Thăng Long (TLS), CTCK VNDirect (VNDS), CTCK VNS (VNS)…

Tuy nhiên, thực tế cho thấy bên cạnh lợi nhuận ban đầu thu được từ hoạt động giao dịch ký quỹ, nhiều CTCK đã gặp phải những thất bại do chưa có một khung pháp lý hoàn thiện dẫn đến những mâu thuẫn pháp lý với nhà đầu tư. Đồng thời, việc cho phép nhà đầu tư ký quỹ với một khối lượng tiền lớn mà không có hoạt động quản trị rủi ro đã dẫn đến sự thua lỗ nặng nề cho các bên tham gia.

Hiện tượng này có thể được minh họa điển hình qua vụ việc về giao dịch cổ phiếu của CTCP nhựa An Phát (AAA) niêm yết trên HNX. “Cổ phiếu AAA đã tăng mạnh từ mức giá

47.000 VND/CP ngày 19/8/2010 lên mức cao nhất là 91.600 VND/CP (bình quân) ngày 16/09/2010 với thanh khoản tốt, trong bối cảnh TTCK chỉ dao động rất hẹp. Khoảng 4,4 triệu CP được giao dịch trong khoảng giá trên 90.000 VND. Tuy nhiên, sau 5 ngày giao dịch, giá AAA đã giảm về mức 63.400 VND (bình quân) tính đến hết ngày 24/09/2010, với khối lượng đặt mua khiêm tốn và dư bán lên tới hàng triệu CP”6. Có nhiều giả thiết giải thích cho hiện

tượng bất thường trong giao dịch CP AAA, nhưng có một nhận định hợp lý cho rằng đã có sự làm giá cổ phiếu này của một nhóm nhà đầu tư. Lợi dụng việc được ưu đãi trong hoạt động ký quỹ tại một số CTCK, nhóm nhà đầu tư này đã liên kết với nhau thực hiện việc “làm giá” cổ phiếu AAA, sau đó sử dụng vốn ký quỹ từ các CTCK để mua ở giá cao. Sau cùng, sau khi các nhà đầu tư đã “cao chạy xa bay”, các CTCK đã phải lĩnh hậu quả từ việc cho thực hiện ký quỹ với một tỷ lệ lớn.

4 Giang Thanh, “Góc khuất mang tên Margin”, Báo đầu tư Chứng khoán, số 135, 11/10/2010

5 nt

6 Diễn đàn chứng khoán, “AAA: Hiện tượng bất thường và nghi vấn mang tên margin”, Báo đầu tư Chứng khoán, số 116, ngày 27/09/2010

Hộp 4: Định nghĩa về giao dịch ký quỹ


Ký quỹ, vay mua chứng khoán:“Là khoản tiền đặt cọc của một khách hàng cho công ty chứng khoán khi họ thực hiện việc vay tiền mua chứng khoán. Theo quy định của Hội đồng Dự trữ liên bang, mức ký quỹ ban đầu thực thi từ năm 1945 yêu cầu số tiền ký quỹ từ 50 tới 100% lượng tiền mua chứng khoán. Vào giữa những năm 1990 mức ký quỹ tối thiểu là 50% lượng tiền mua chứng khoán hoặc bán khống chứng khoán, tính ra tiền mặt hoặc các chứng khoán được gia dịch hợp pháp, với mức tối thiểu là 2.000 USD. Sau đó, các yêu cầu về ký quỹ duy trì đựơc Hiệp hội các nhà giao dịch chứng khoán (NASD) và Sở Giao dịch chứng khoán đặt ra, và nhiều công ty chứng khoán cũng có các yêu cầu tương tự hoặc cao hơn”

Nguồn: Thuật ngữ chứng khoán Anh – Việt, Trung tâm NCKH – ĐTCK, UBCKNN (2010)

Chưa có số liệu thống kê chính thức về các khoản cho vay của công ty chứng khoán đối

với nhà đầu tư dưới dạng hợp đồng hợp tác đầu tư nhưng chắc chắn con số này lên tới nhiều ngàn tỷ VND7. Các khoản vay ký quỹ tại các CTCK tiếp tục là áp lực nặng nề đối với TTCK, nhất là khi thị trường đang đi xuống như hiện nay. Trong giai đoạn TTCK suy giảm trong tháng 5 vừa qua, hiện tượng giải chấp của các CTCK đã khiến thị trường giảm điểm. Để đảm bảo thanh khoản, các CTCK phải bán chứng khoán bất chấp việc giá cổ phiếu và khối lượng

giao dịch xuống rất thấp. Đối với các nhà đầu tư, do thị trường giảm sâu, cùng với lãi suất đối với lĩnh vực phi sản xuất tăng lên sẽ khiến nhiều NĐT bán ra để trả nợ gốc và lãi cho các NHTM. Vì không có dòng tiền mới vào thị trường nên bất chấp giá đã giảm mạnh, khối lượng giao dịch vẫn ở mức rất thấp. Nhiều tài khoản vô chủ xuất hiện để mặc cho CTCK tự xử lý. Đây là lý do khiến cho không ít công ty chứng khoán đang ở bên bờ vực đổ vỡ tài chính.

Thực tiễn thị trường các nước cho thấy, việc

, tạo tính thanh khoản

cho thị trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô và thị trường Việt Nam như hiện nay, hình thức đầu tư này có độ rủi ro cao, càng sử dụng margin nhiều thì số tiền thua lỗ càng nhanh. Do chưa có quy định cụ thể, nên nhiều khoản vay không được thể hiện trên sổ sách kế toán như bản chất của nó, mà nằm ở khoản phải thu hay tài khoản tự doanh tùy thuộc cách ghi nhận của CTCK8. CTCK không thể thu hồi lại khoản hỗ trợ tài chính do đó phải tiến hành khoanh nợ cho NĐT. Nhiều công ty không thể xử lý vì nếu xử lý sẽ phải hạch toán tổn thất

này thì kết quả kinh doanh sẽ xấu đi, chưa kể phải xử lý trách nhiệm người bảo lãnh, của


7 http://www.vinacorp.vn/news/chung-khoan-thang-6-co-hoi-tot-nhat-trong-nhieu-nam/ct-457809

8 http://cafef.vn/20110531083028362CA31/noi-dau-margin.chn

nhân viên môi giới, điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong các CTCK, gây khó khăn cho việc quản lý của các cơ quan quản lý.

Ngày 1/06/2011, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 74 về hướng dẫn giao dịch chứng khoán, trong đó có việc cho phép NĐT mở một tài khoản tại mỗi công ty chứng khoán, được cùng mua và bán cổ phiếu trong cùng ngày giao dịch, được thực hiện nghiệp vụ ký quỹ (margin) và giao cho UBCKNN hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ này. Nhìn chung sau khi Thông tư được ban hành, dư luận trên thị trường chứng khoán Việt nam đã có nhiều phản ứng tích cực.

Thứ ba, bán khống (Short sales)

Theo thông lệ, bán khống (short sales) là việc bán một chứng khoán mà người bán không sở hữu vào thời điểm bán. Thay vào đó, người bán này đi vay chứng khoán, hoặc đảm bảo được rằng chứng khoán có thể vay được, để bán với mong muốn kiếm lợi nhuận bằng cách mua lại và trả lại chứng khoán đó khi giá chứng khoán này giảm.

Trên TTCK nói chung, hoạt động bán khống còn được chia làm hai loại là: bán khống có bảo đảm vào bán khống không có bảo đảm. Thực tiễn từ hoạt động của các CTCK tại Việt Nam cho thấy, đa phần hoạt động bán khống được thực hiện là có bảo đảm, tức là có cổ phiếu đang về trên tài khoản và các CTCK thường cho phép nhà đầu tư được phép bán chứng khoán trước thời điểm chứng khoán chuyển về tài khoản.

Nhìn góc độ khác, có thể thấy đây là hành vi các nhân viên môi giới của CTCK cho nhà đầu tư vay chứng khoán. Chứng khoán cho vay có thể là của CTCK có được trong hoạt động tự doanh hoặc cũng có thể thuộc sở hữu của một nhà đầu tư khác đang mở tài khoản tại CTCK. Thông qua hoạt động này, CTCK sẽ hưởng phí dựa trên giá trị chứng khoán mà người vay thực hiện. Hoạt động này về cơ bản không gây ra nhiều rủi ro cho CTCK do họ được đảm bảo bởi chính tài khoản của người đi vay và số chứng khoán mà họ sẽ có. Theo báo Đầu tư chứng khoán, trong giai đoạn cuối năm 2010, khi TTCK có xu hướng đi xuống, các hình thức cho vay chứng khoán chứng khoán để bán khống phát triển khá mạnh. “Trong thư giới thiệu và chào mời mở tài khoản gửi tới nhà đầu tư, môi giới của một CTCK không ngại ngần quảng cáo việc CTCK mình sẵn sàng cho khách hàng vay cổ phiếu bán khống như

một dịch vụ đặc biệt nhằm thu hút nhà đầu tư”9. Thậm chí, những danh sách cổ phiếu kèm

theo khối lượng cổ phiếu mà khách hàng được vay để bán khống cũng được môi giới và nhà đầu tư chuyền tay nhau.

9 Nguyễn Quang, “Lách luật lập chợ đen tín dụng chứng khoán”, Báo đầu tư chứng khoán, số 130 ngày 29/10/2010

Ví dụ 3: Danh sách và khối lượng CP nhà đầu tư có thể vay của một CTCK


Khối lượng (CP)

Khối lượng (CP)

HLG

99,490

V15

70,600

TBC

97,330

CCM

37,400

SRC

91,220

DPM

35,000

DAC

88,500

VCS

31,800



TLH

22,240

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 31 trang tài liệu này.

KHẢO SÁT NHANH CÁC LOẠI HÌNH CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH VÀ SẢN PHẨM GIAO DỊCH MỚI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM - 2

Nguồn: Nguyễn Quang, “Lách luật lập chợ đen tín dụng chứng khoán”, Báo đầu tư chứng khoán, số 130 ngày 29/10/2010

Còn trên thị trường OTC, hoạt động bán khống chủ yếu là bán khống không có bảo đảm. Giai đoạn sôi động của hoạt động bán khống chủ yếu diễn ra vào năm 2009. Hoạt động này được tập trung chủ yếu ở một số cổ phiếu OTC của các ngân hàng lớn mà điển hình là cổ phiếu của ngân hàng quân đội (MB). Vào giai đoạn cao điểm, các môi giới tự do đã hình thành những chợ OTC để giao dịch bán khống cổ phiếu MB một cách tự phát. Về bản chất, các giao dịch bán khống trên thị trường OTC là hoạt động bán khống không có bảo đảm. Do vậy, hoạt động này đã gây ra rất nhiều rủi ro cho nhà đầu tư. “Vụ vỡ nợ 30 tỉ VND của một người buôn bán cổ phiếu OTC mới đây vẫn còn dư chấn đối với dân chơi chứng khoán trên thị trường phi tập trung, tiếp tục báo động những bất cập trong công tác quản lý Nhà nước đối

với loại hình giao dịch này”10.

Hộp 5: Định nghĩa về bán khống


Bán khống có đảm bảo (covered shorts): trong đó bán khống có đảm bảo là trường hợp người bán đã vay hoặc có đảm bảo chứng khoán có thể vay được.

Bán khống không có đảm bảo (naked shorts): là trường hợp người bán không hề có ý định đi vay hoặc không thể chuyển giao chứng khoán khi đến hạn thanh toán. Riêng trường hợp sau có thể xảy ra từ sự lợi dụng kẽ hở của pháp luật về chứng khoán cũng như những khác biệt trong hệ thống giao dịch, và đa phần được coi là bất hợp pháp.

Nguồn: Phòng Phân tích Dự báo thị trường ( TT NCKH-ĐTCK, UBCKNN) “Báo cáo tổng hợp phản ứng của thị trường đối với qui định 2649/UBCK-PTTT của UBCKNN ngày 24/11/2009 về việc tuân thủ qui định giao dịch chứng khoán”, T12/2009

Như vậy, hoạt động bán khống là một thực tế đã được triển khai thực hiện trên TTCK

Việt Nam cho dù dưới nhiều tên gọi hoặc quan niệm khác nhau. Thuật ngữ “bán khống” không được sử dụng nhiều trên thị trường có lẽ vì tại Việt Nam, việc bán khống các chứng khoán mà mình không sở hữu thường được hiểu mang ý nghĩa tiêu cực. Do vậy, những quy

10 http://dantri.com.vn/c25/s76-321545/buon-khong-co-phieu-otc-chet-co-ngay.htm

định rõ ràng về hành vi “bán khống” của cơ quan quản lý là cần thiết, bởi vì thực tiễn trên thị trường các nước cho thấy, việc cho vay chứng khoán để bán hoặc bán trước ngày chứng khoán về tài khoản trên thị trường hiện nay đã chính là hoạt động bán khống.

2. Các ý kiến từ các bên liên quan


2.1 Ý kiến của nhà đầu tư

Các ý kiến của nhà đầu tư trên các phương tiên thông tin như báo chí, Internet rất đa dạng, song về cơ bản đều tập trung vào việc ủng hộ việc cho phép thực hiện các giao dịch về CKPS và các sản phẩm giao dịch mới.

Hương Giang – Hà Nội: Hy vọng, quy định về bán khống cũng như đầu mối kết nối nhu cầu vay mượn cổ phiếu nêu trên sớm ra đời để các cổ phiếu "nhàn rỗi" tạo thêm thu nhập cho người sở hữu bằng cách cho vay để hưởng phí. Còn nhà đầu tư có công cụ để giảm thiểu rủi ro, nhà đầu tư ít vốn có thể vay cổ phiếu để kinh doanh và kiếm lời ngay cả trong trường hợp thị trường đi xuống. TTCK khi đó cũng sẽ sôi động hơn, một số "cổ phiếu hiếm" (số lượng được phép lưu hành ít) thanh khoản hơn, diễn biến giá cả hợp lý hơn khi có thêm cổ phiếu được đưa vào giao dịch, tạo sự cân bằng về cung cầu.

Nguyễn Văn Nam – Tp. Hồ Chí Minh: Nhu cầu đầu tư cổ phiếu trong ngắn hạn rất lớn và đa dạng, nếu các công ty chứng khóan thực hiện được nghiệp vụ bán khống chứng khóan thì góp phần tạo thêm lợi nhuận của công ty và thanh khỏan cho TTCK.

Hoàng Xuân Quyến – Hà Nội: Giao dịch ký quỹ đang là nhu cầu chính đáng và bức thiết của đa số các nhà đầu tư, của các công ty môi giới chứng khoán, ngân hàng thương mại và cũng là đòi hỏi chính đáng để thị trường phát triển.

Vũ Quý Hưng – Hà Nội: bản thân các hình thức CKPS không có lỗi gì mà nó là một công cụ hết sức hữu hiệu để mọi nhà quản lý có thể quản lý được rủi ro về giá trong quá trình kinh doanh tại thị trường tương lai. Nếu chỉ kinh doanh trên thị trường truyền thống như hiện nay thì không thể nào hạn chế được rủi ro vì giá cả thay đổi hàng giờ, hàng ngày. Rất tiếc các cơ quan chức năng không làm rõ ưu điểm nổi bật này và cũng chưa chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể bằng văn bản để mọi người đều thấy tham gia sàn phải như thế nào và làm sao có được lợi ích thiết thực cho mọi người, chứ không biến sàn trở thành một sòng bạc hay dùng các mánh khoé để lừa nhau.

2.2 Ý kiến của CTCK, cơ quan, hiệp hội

Đối với các CTCK các quan điểm được đưa ra cũng cho thấy, họ là đối tượng rất mong muốn việc triển khai thực hiện các sản phẩm CKPS. Bởi lẽ, trong giai đoạn TTCK ảm

Xem tất cả 31 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí