Nghiên Cứu Xây Dựng Mẫu Hợp Đồng Bot Cho Các Dự Án Về Giao Thông Đường Bộ

trong nước, dự án quan trọng quốc gia, dự án Thủ tướng chấp thuận đầu tư… cần phải có sự thống nhất nhằm khắc phục tình trạng tuỳ tiện giữa các cơ quan Nhà nước có liên quan và cách thức thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư cả trong quá trình tiếp nhận và xử lý, xem xét, chấp thuận, phê duyệt cũng như việc theo dõi triển khai và quản lý thực hiện dự án đầu tư sau khi được chấp thuận đầu tư.

Thứ hai, cần quy định rõ ràng về cơ quan làm đầu mối giải quyết công việc làm giảm sự phân tán về cơ quan có thẩm quyền giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến việc triển khai thực hiện hợp đồng BOT.

Thứ ba, Việc thực hiện hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ chịu nhiều sự tác động của các quy định pháp luật về điều chỉnh doanh nghiệp BOT, bởi vì hợp đồng BOT chỉ có thể được thực hiện thông qua doanh nghiệp dự án. Việc thực hiện hợp đồng BOT luôn gắn với quá trình thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp dự án. Mục đích của hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ cũng có ý nghĩa là các kết quả hoạt động tốt của doanh nghiệp BOT. Hoạt động của Doanh nghiêp này chịu sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp tương tự như các doanh nghiệp khác.

Tính hấp dẫn của một dự án BOT trong lĩnh vực đường bộ đối với các nhà đầu tư thuộc khu vực tư nhân tùy thuộc vào nhiều cách thức Chính phủ giải quyết các vấn đề về doanh nghiêp và các vấn đề liên quan. Pháp luật điều chỉnh các vấn đề của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dự án BOT nói riêng yếu kém có thể làm hại đến sức mạnh và tính hiệu quả của các dự án BOT nói chung và các dự án về giao thông đường bộ nói riêng.

Thứ tư, Trong giai đoạn hiện nay các quy định về hợp đồng BOT và các quy định pháp luật khác điều chỉnh doanh nghiệp còn tồn tại nhiều điểm chưa thống nhất, không đồng bộ. Rõ ràng những khác biệt và không tương thích giữa các luật và quy định hướng dẫn thi hành các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp BOT như trình bày ở chương 2 đã gây ra những khó khăn rủi ro và chi phí không cần thiết đối với cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp. Vì vậy, việc nghiên cứu xem xét và kiến nghị bổ sung sửa đổi các quy định có liên quan đến doanh nghiệp BOT trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Nhằm đảm bảo tính thông suốt, tính nhất quán và tổng thể của pháp luật, cần phải sửa đổi và bổ sung các quy định pháp luật về doanh nghiệp liên quan, cụ thể là các vấn đề sau:

- Đối với giao đất hoặc cho thuê đất: chế độ cho thuê đất hoặc giao đất nên thống nhất đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư theo hợp đồng BOT vào các dự án giao thông đường bộ tạo sự bình đẳng giữa các chủ đầu tư.

- Đối với quyền của doanh nghiệp dự án: Điều 7 Luật Doanh nghiệp quy định doanh nghiệp được làm những điều pháp luật không cấm, tuy nhiên trong phạm vi dự

án PPP doanh nghiệp dự án chỉ được thực hiện những nhiệm vụ trong phạm vi, mục đích thực hiện dự án. Điều này là thiếu thống nhất giữa các luật, cần có những quy định cụ thể, chi tiết và thống nhất riêng cho doanh nghiệp dự án PPP nói chung và doanh nghiệp dự án BOT đường bộ nói riêng. Đồng thời, ngoài quyền kinh doanh của doanh nghiệp dự án đã được luật PPP công nhận, cần phải tiếp tục dự án nghiên cứu để làm rõ một số vấn đề về xác định quyền kinh doanh công trình dự án không chỉ là một loại quyền tài sản thông thường mà là một loại vật quyền hạn chế, tồn tại song song và độc lập với quyền sở hữu công trình dự án của nhà đầu tư.

Thứ năm, cần bổ sung trở lại quy định về quyền sở hữu tài sản trong đó tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính; Trường hợp Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai thì nhà đầu tư được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản và các điều kiện thỏa thuận tại hợp đồng dự án. Đây là vấn đề rất quan trọng, được các nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm, đã được quy định trong Điều 66 của Nghị định 63/2018/NĐ-CP nhưng hoàn toàn không được quy định trong Luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư PPP.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

4.2.1.6 Nghiên cứu xây dựng mẫu hợp đồng BOT cho các dự án về giao thông đường bộ

Hoàn thiện mẫu hợp đồng BOT, quy định chi tiết về quyền, nghĩa vụ của Chính phủ và nhà đầu tư, tài chính và thuế, thiết kế và thi công, chi phí giải phóng mặt bằng, vận hành, thời gian thu phí, mức phí, giá trị quyết toán của hợp đồng, diễn biến thay đổi lưu lượng xe, đất đai, các thỏa thuận bảo đảm, bảo lãnh, thủ tục thiết kế và kiểm tra… Hợp đồng cần quy định rõ trách nhiệm bảo đảm chất lượng công trình khi vận hành và đến khi bàn giao cho Nhà nước. Đồng thời có quy trình giám sát, phân chia, chuyển giao và kiểm soát rủi ro bằng cách phân tích các rủi ro của dự án trước khi tiến hành đấu thầu, bảo đảm cân bằng lợi ích và rủi ro được phân bổ hợp lý cho các bên liên quan, đồng thời phải loại bỏ các điều khoản bí mật trong hợp đồng.

Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao trong các dự án về giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam hiện nay - 19

4.2.1.7. Rà soát, sửa đổi, bổ sung một số văn bản luật và dưới luật liên quan đến hoạt động đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT trong lĩnh vực giao thông đường bộ

Việc rà soát, nghiên cứu sửa đổi văn bản luật, dưới luật liên quan đến hoạt động đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ để tránh chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật cần xem xét, chú trọng tới một số nội dung sau:

Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung các hướng dẫn, quy định để làm rõ các vấn đề về tài chính như thuế giá trị gia tăng, hoàn thuế, tính lãi vay,... Nghiên cứu, sửa đổi

bổ sung các quy định về chế tài xử lý vi phạm, quyết toán công trình giao thông đường bộ, quyết toán hợp đồng BOT, quy định cụ thể về cơ chế nguồn vốn để xử lý trách nhiệm khi nhà nước vi phạm hợp đồng,...

Thứ hai, cần bổ sung Quy định về hỗ trợ tài chính của Nhà nước đối với các dự án thực hiện theo hợp đồng BOT như cụ thể hóa cơ chế bảo đảm, bảo lãnh tránh các hướng dẫn quá chung chung. Quy định cụ thể các trường hợp, tiêu chí được áp dụng bảo đảm, bảo lãnh trên cơ sở đặc thù của dự án tránh cho các Bộ, ngành gặp khó khăn trong việc đáp ứng các điều kiện để được cấp bảo lãnh cho dự án BOT.

Nghiên cứu đánh giá toàn diện chính sách khuyến khích xã hội hóa và đầu tư theo hình thức đối tác công tư, từ đó làm rõ đối tượng áp dụng hình thức xã hội hóa vào BOT, tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước khi quyết định áp dụng hình thức thực hiện đầu tư.

Thứ ba, cần sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư công và Luật Ngân sách nhà nước để có cơ chế linh động, nhanh gọn, bảo đảm cho các khoản bảo lãnh là các nghĩa vụ tài chính thuộc trách nhiệm nhà nước được thực hiện kịp thời, theo đúng thông lệ quốc tế (tránh trường hợp như hiện nay khi các khoản chi, vốn bố trí cho dự án phải được lập dự toán, kế hoạch theo quy trình, thủ tục trong khi các khoản bảo lãnh có thể phát sinh và cần được thực hiện ngay không thể chờ lập kế hoạch, dự toán theo quy định của 02 luật trên).

4.2.1.8 Khắc phục sự bất cập không đồng nhất giữa quy định của Luật PPP và Nghị định hướng dẫn thi hành

Với sự ra đời của Luật PPP có thể nói đến thời điểm này, chính sách PPP của Việt Nam nói chung và các nội dung về cơ chế tài chính thật sự là một bước tiến tiệm cận tới bình đẳng, minh bạch. Tuy nhiên đầu tư PPP là cơ chế hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân, trong đó mỗi bên theo đuổi một mục đích riêng. Trong khi đó thiết kế chính sách của nhà nước là một “luật chơi” do nhà nước chủ động đặt ra phản ánh kỳ vọng cần đạt của phía nhà nước, nên chắc chắn không đáp ứng được toàn bộ mong đợi của các bên.

Thực tế hiện nay nghiên cứu sinh kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung một số nội dung bất cập như đã nêu ở phần thực trạng có tính cấp thiết tại Nghị định số 28/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 quy định cơ chế quản lý tài chính dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư như sau:

- Tại Điều 70 Luật PPP cho thấy nội dung điều chỉnh rất rõ rằng “giá trị, tiến độ và điều kiện” giải ngân vốn tham gia của nhà nước tuỳ theo hợp đồng. Có nghĩa tinh thần của Điều luật này, Nhà nước tham gia về tài chính trong giai đoạn xây dựng dự án chính để nhằm mục đích tăng hiệu quả về tài chính. Tuy nhiên với quy định tại khoản 3, Điều 8, Nghị định 28, vốn hỗ trợ của Nhà nước chỉ giải ngân khi khối lượng các hạng mục công trình đó đã hoàn thành, được cơ quan ký kết hợp đồng dự án xác

nhận, là đồng nghĩa với việc không bình đẳng. Vậy nên muốn tháo gỡ vướng mắc này thì cần “nắn” lại quy định tại Nghị định 28 theo hướng: Nhà đầu tư bỏ một đồng thì Nhà nước cũng phải giải ngân kịp thời một đồng !

- Tương tự như vậy với quy định tại mục b, khoản 1, Điều 17 Nghị định 28/2021/NĐ-CP (về điều chỉnh mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ công, điều chỉnh thời hạn hợp đồng theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 82 Luật PPP), đang làm bế tắc việc áp dụng điều khoản chia sẻ tăng, giảm doanh thu, đối với dự án 3 thành phần cao tốc Bắc - Nam phía Đông triển khai theo hình thức PPP, đẩy các nhà đầu tư lâm vào khó khăn. Việc sửa đổi điều luật này cần hướng đến quy định chi tiết việc áp dụng điều chỉnh mức giá, phí, thời hạn hợp đồng ở mức độ nào và đến khi nào để được chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu do không thể tăng giá, phí sản phẩm, dịch vụ công quá cao và tăng suốt vòng đời dự án ?

Luật PPP đã quy định, định kỳ hằng năm, các bên trong hợp đồng dự án PPP xác định doanh thu thực tế, gửi cơ quan tài chính có thẩm quyền thực hiện cơ chế chia sẻ phần doanh thu tăng, giảm. Nhưng Nghị định 28 lại chỉ quy định cơ quan nhà nước ký kết hợp đồng, trong khi đó doanh nghiệp là một bên trong hợp đồng dự án. Do đó để việc thực hiện hợp đồng PPP đi vào thực chất, tạo ra sự hấp dẫn với các nhà đầu tư dự án, Nghị định cần hướng đến việc trao cho doanh nghiệp có quyền được tham gia quá trình xác định doanh thu, làm căn cứ để thực hiện cơ chế chia sẻ doanh thu.

- Một quy tắc quan trọng có tính phổ quát, PPP chính là hợp đồng, khác với đầu tư thông thường. Theo đó dù là nhà nước hay tư nhân khi tham gia đàm phán đều có vị thế bình đẳng để đạt đến các kết quả tối ưu. Có nghĩa càng có nhiều quy định mang tính pháp luật thì càng thu hẹp các không gian để các bên tự điều chỉnh bằng đàm phán và thoả thuận. Mà như thế thì sự quan tâm và hứng thú của các nhà đầu tư tư nhân vào các dự án PPP sẽ giảm. Vì vậy, tinh thần này phải được thể hiện xuyên suốt trong Luật PPP và kể cả Nghị định 28 sửa đổi bổ sung sắp tới đây.

4.2.1.9 Chú trọng chất lượng xây dựng các chế định pháp luật về hợp đồng BOT trong giao thông đường bộ

Tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định, nhất là các quy định mới như xây dựng nội dung của chính sách, đánh giá tác động của chính sách, lấy ý kiến, thẩm định chính sách về đầu tư theo hợp đồng BOT. Bên cạnh đó, nghiên cứu, hoàn thiện quy định, quy trình xây dựng luật đối tác công tư cũng như sửa đổi các luật có liên quan theo hướng nâng cao giá trị pháp lý của văn bản thẩm định và bảo đảm trách nhiệm “đến cùng” của cơ quan trình dự án luật. Đồng thời thường xuyên rà soát và hệ thống hóa các văn bản pháp luật về chế định hợp đồng BOT nói chung và hợp đồng BOT trong lĩnh vực giao thông đường bộ nói riêng

4.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án giao thông đường bộ ở Việt Nam

Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, thực hiện pháp luật là giai đoạn thứ hai sau khi đã tiến hành giai đoạn xây dựng pháp luật và là giai đoạn quan trọng, không thể thiếu. Bởi pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của nó trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự xã hội khi nó được tôn trọng và thực hiện đầy đủ. Do vậy, vấn đề mấu chốt không chỉ là ban hành điều luật phù hợp mà còn là ý thức thượng tôn pháp luật trong toàn xã hội.

Tương tự như vậy, việc xây dựng được hệ thống văn bản quy phạm pháp luật rõ ràng, đầy đủ, minh bạch giúp điều chỉnh việc thực hiện hợp đồng BOT, thực hiện các dự án giao thông đường bộ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần đồng thời thực hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đầu tư theo hợp đồng BOT trong các dự án giao thông đường bộ ở Việt Nam mới có thể đảm bảo được sự phát triển của ngành giao thông vận tải đường bộ.

4.2.2.1 Nâng cao năng lực thực hiện pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ ở Việt Nam

Pháp luật về hợp đồng BOT tác động vào các quan hệ hợp đồng BOT đạt hiệu quả cao nhất chỉ khi những quy định pháp luật này được thực hiện chính xác, triệt để, công bằng, và minh bạch. Pháp luật về hợp đồng BOT dù có chặt chẽ, hợp lý bao nhiêu mà không đưa được vào thực tiễn cuộc sống thì cũng chỉ là những con chữ vô nghĩa trên giấy. Nói cách khác pháp luật về hợp đồng BOT chỉ thực sự có hiệu quả khi nó được áp dụng vào thực tiễn. Còn thực tiễn áp dụng pháp luật về hơp đồng BOT giúp cho pháp luật hợp đồng BOT cho hoàn chỉnh, phù hợp với cuộc sống thực tiễn.

Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ chỉ thực sự có ý nghĩa khi có cơ chế áp dụng pháp luật về hợp đồng BOT thích hợp, hiệu quả. Ngoài yêu cầu có một hệ thống pháp luật về hợp đồng BOT hoàn chỉnh, để áp dụng pháp luật về hợp đồng BOT chính xác và đạt hiểu quả cần nâng cao năng lực áp dụng pháp luật về hợp đồng BOT trong thực tiễn. Cụ thể cần thực hiện một số giải pháp mang tính chất tổng thể sau:

Thứ nhất, Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành việc đàm phán, ký kết, phê duyệt va giám sát thực hiện hợp đồng BOT nói chung và trong các dự án về giao thông đường bộ phải độc lập, khách quan và không bị ảnh hưởng bởi áp lực chính trị từ các chủ đầu tư và các nhà cung cấp dịch vụ công cộng khác.

Thứ hai, cần giáo dục hiểu biết về hợp đồng BOT và ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật nói chung, pháp luật về hợp đồng BOT trong lĩnh vực giao thông đường bộ nói riêng cho những người thi hành và ứng dụng pháp luật về hợp đồng BOT vào thực tiễn.

Thứ ba, Các thủ tục pháp lý liên quan đến tất cả các khâu của hợp đồng BOT từ việc hình thành dự án, lựa chọn đầu tư, đàm phán, thương lượng, đến ký kết và thực hiện hợp đồng BOT phải công khai, các quyết định hành chính của các cơ quan liên quan phải nếu rõ các cơ sở để đưa ra các quyết định đồng thời phải công bố công khai cho công chúng hoặc làm cho công chúng có thể dễ dàng tiếp cận được thông qua các phương tiện đại chúng hoặc những hình thức khác.

Thứ tư, Pháp luật về hợp đồng BOT phải thiết lập những thủ tục minh bạch theo đó nhà đầu tư có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện những quyết định của cơ quan hành chính Nhà nước đồng thời luật cũng phải nếu rõ những cơ sở pháp lý cũng như các thủ tục liên quan cho việc thực hiện các khiếu nại và khiếu kiện đó. Thứ năm, Nâng cao trình độ cũng như đạo đức của chuyên viên tham gia đàm phám, ký kết hợp đồng BOT của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm giúp họ nắm bắt tốt các nguyen tắc áp dụng pháp luật về hợp đồng BOT, tức là lựa chọn quy phạm pháp luật về hợp đồng BOT phù hợp và phân tích làm rõ nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật về hợp đồng BOT về lĩnh vực giao thông đường bộ đối với

trường hợp cần áp dụng.

4.2.2.2 Phối kết hợp chặc chẽ sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền

Nêu cao quyết tâm, tăng cường khả năng phối kết hợp của cả hệ thống chính trị thông qua việc chủ động vào cuộc của Quốc hội, Chính phủ, Bộ, ngành, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp trong công tác giám sát, tuyên truyền, hoàn thiện chính sách quản lý trong lĩnh vực đầu tư hợp đồng BOT tại các dự án giao thông đường bộ. Xây dựng đồng bộ khung pháp lý hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn, minh bạch và thuận lợi trong triển khai các dự án, đồng thời bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân khi thực hiện dự án BOT nói riêng, hình thức PPP nói chung phù hợp với thông lệ quốc tế.

4.2.2.3 Giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức có nhiệm vụ, thẩm quyền áp dụng pháp luật.

Có thể nói việc áp dụng pháp luật là hoạt động đặc thù do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Do đó đội ngũ cán cộ, công chức nhà nước chính là những người trực tiếp áp dụng luật. Các quy định điều chỉnh hợp đồng BOT, giao thông đường bộ liên quan nhiều đến cán bộ, công chức của các Bộ, các Sở Giao thông vận tải, kế hoạch và đầu tư, tài chính, Tổng cục đường bộ Việt Nam và một số cơ quan nhà nước khác. Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong các dự án BOT, dự án giao thông đường bộ cần chú trọng tăng cường giáo dục, bồi dưỡng pháp luật cho các cán bộ, công chức tại các đơn vị này.

Chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của đội ngũ này phụ thuộc phần lới vào trình độ tri thức, hiểu biết pháp luật và kỹ năng nghiệp vụ. Trong nhiều

nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, sai sót trong hoạt động áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay thì sự thiếu hiểu biết về pháp luật, không chủ động cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật và yếu về kỹ năng nghiệp vụ của ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Chính vì vậy việc tăng cường giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật là một biện pháp hết sức quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm theo từng giai đoạn, từng lĩnh vực cụ thể.

Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng cần phải có định hướng, kế hoạch rõ ràng hàng năm, được tổ chức thực hiện thông qua các phương pháp đặc thù và bằng các hình thức chủ yếu là tập huấn, đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng pháp luật nhằm cung cấp cho đội ngũ này cái nhìn tổng quát về các vấn đề pháp luật nói chung, những pháp luật cụ thể liên quan đến lĩnh vực BOT giao thông đường bộ.

Các khóa đào tạo, bồi dưỡng pháp luật ngoài cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật về dự án đường bộ, hợp đồng BOT cần có những trao đổi, thảo luận, hỏi đáp để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến áp dụng pháp luật, đưa ra những ví dụ minh họa cụ thể, thiết thực để giúp các cán bộ, công chức hiểu đúng, hiểu sâu các vấn đề liên quan, nâng cao khả năng hiểu và áp dụng linh hoạt pháp luật từ đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.

Hệ thống giáo dục pháp luật luôn là thể thống nhất giữa các thành tố: mục đích, mục tiêu, chủ thể đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật. Hoạt động giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật là hoạt động dành riêng cho một nhóm đối tượng cụ thể nên nó có những nét đặc thù nhất định, do đó, ngoài sự tuân thủ các yêu cầu chung của quá trình giáo dục pháp luật nói chung, việc tăng cường giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dùng đòi hỏi phải [44]:

Về mục đích, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật về hợp đồng BOT trong giao thông đường bộ phải hướng tới trang bị những kiến thức pháp luật chuyên sâu lĩnh vực chuyên ngành có liên quan, phù hợp với chức danh, thẩm quyền áp dụng pháp luật của từng người, củng cố các kỹ năng áp dụng pháp luật của đội ngũ này.

Về mục tiêu: mục tiêu là sự cụ thể hóa của mục đích giáo dục pháp luật. Mục tiêu giáo dục pháp luật điều chỉnh về hợp đồng BOT, đầu tư PPP, các dự án giao thông đường bộ cần được thể hiện trên ba phương diện, bao gồm mục tiêu về nhận thức, mục tiêu về kỹ năng, mục tiêu về tình cảm.

Mục tiêu về nhận thức đạt được khi thường xuyên củng cố, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật chuyên ngành cho đội ngũ CBCC nhà nước có thẩm quyền áp dụng luật.

Mục tiêu về kỹ năng đạt được khi thường xuyên trau dồi, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ áp dụng pháp luật.

Mục tiêu về tỉnh cảm là làm hình thành củng cố niềm tin đối với pháp luật đặc biệt là niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật.

Về chủ thể: chủ thể giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nhà nước phải là những cán bộ, giảng viên, chuyên gia pháp lý có trình độ, hiểu biết về hợp đồng BOT, về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, hiểu biết về các dự án giao thông đường bộ, có kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng nghiệp vụ sư phạm giỏi.

Về đối tượng, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật: đây là đối tượng đặc biệt, là những người trực tiếp áp dụng pháp luật, ngoài ra còn là những cán bộ, công chức lãnh đạo rất bận rộn với công tác quản lý, điều hành. Với đặc thù đối tượng như vậy, cần lựa chọn những phương pháp đào tạo linh hoạt, đa dạng cho phù hợp.

Về nội dung: ngoài những thông tin kiến thức pháp luật chung, nội dung giáo dục pháp luật cho đội ngũ CBCC nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật cần tập trung vào vấn đề pháp luật chuyên ngành điều chỉnh hợp đồng BOT, hợp tác PPP, dự án giao thông đường bộ như Luật PPP, các Nghị định hướng dẫn thi hành luật PPP... Ngoài ra, chủ thể giáo dục pháp luật cần đặc biệt chú ý trang bị tri thức về kỹ năng nghiệp vụ áp dụng pháp luật cho đội ngũ CBCC nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật.

Về phương pháp: cần lựa chọn, phối hợp nhiều phương pháp đảm bảo bài giảng hấp dẫn, lôi cuốn, sinh động. Trong quá trình giảng dạy, tập huấn có thể đưa ra các câu hỏi vấn đáp, những tình huống, sự kiện pháp lý cụ thể có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật chuyên ngành để các học viên đóng góp ý kiến và thảo luận làm rõ vấn đề. Phương pháp giáo dục pháp luật cũng phải hướng tới rèn luyện cho đội ngũ cán bộ công chức có thẩm quyền áp dụng pháp luật về kỹ năng thực hành áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

Về hình thức: nên tập trung vào các hình thức cơ bản là tập huấn chuyên đề pháp luật, hướng tới trang bị kiến thức pháp luật về những văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Bồi dưỡng kiến thức pháp luật hướng tới bổ sung cung cấp lại, trang bị mới, cập nhật cho đội ngũ cán bộ công chức này những kiến thức pháp luật cụ thể, thiết thực trong hoạt động áp dung pháp luật.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/02/2023