Khiếu Nại Đòi Bồi Thường Tổn Thất Trong Bảo Hiểm Hàng Hóa Vận Chuyển Bằng Đường Biển Quốc Tế

nghĩa vụ đề phòng, hạn chế tổn thất của người được bảo hiểm hoàn toàn không có gì trái ngược với chuẩn mực quốc tế.

Nghĩa vụ đề phòng hạn chế tổn thất của người được bảo hiểm còn mở rộng cho việc áp dụng các biện pháp hợp lý không chỉ ngăn ngừa mà còn hạn chế tối đa tổn thất. Nếu hàng hóa đã thực sự bị tổn thất do một rủi ro được bảo hiểm thì người bảo hiểm tiếp tục có nghĩa vụ những biện pháp hợp lý ví dụ như lưu kho, tái chế, đóng gói để làm giảm bớt tổn thất. Điều hiển nhiên là các biện pháp này phải được áp dụng ngay lập tức.

c) Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm khi xảy ra tổn thất


Khi xảy ra hoặc phát hiện những hư hỏng hoặc mất mát có khả năng được bồi thường theo đơn bảo hiểm, người được bảo hiểm phải thông báo ngay tình trạng hư hỏng mất mát cho người bảo hiểm và/hoặc đại lý giải quyết khiếu nại được ghi trên đơn bảo hiểm để xử lý tai nạn theo trách nhiệm của hợp đồng bảo hiểm. Việc thông báo này là hết sức cần thiết vì nó làm giám định viên dễ dàng hướng dẫn người được bảo hiểm thực hiện công tác đề phòng và hạn chế tổn thất cũng như xác định mức độ hư hỏng hoặc mất mát xảy ra như thế nào? khi nào và ở đâu? để làm cơ sở cho việc giám định bồi thường sau này. Trong những trường hợp cần thiết người được bảo hiểm còn cần phải thông báo ngay cho các cơ quan chức năng liên quan như: Cảng vụ, cảnh sát, chính quyền cảng…để xử lý rủi ro theo pháp luật. Ngay cả khi hư hỏng hoặc mất mát không thuộc trách nhiệm của người bảo hiểm thì việc thông báo sớm như vậy sẽ giúp người được bảo hiểm xác định được ai là người phải chịu trách nhiệm về hư hỏng mất mát đó để bảo lưu và thi hành mọi quyền khiếu nại các bên liên quan như: người chuyên chở, người ủy thác... Bên cạnh nghĩa vụ thông báo rủi ro, tổn thất thì trong mọi trường hợp người được bảo hiểm và đại lý của họ phải tiến hành các biện pháp để đề phòng, hạn chế tổn thất xảy ra tiếp theo cho đối tượng được bảo hiểm, đồng thời người được bảo hiểm phải đảm bảo thực hiện và bảo lưu quyền khiếu nại của người bảo hiểm đối với người chuyên chở, người nhận ủy thác hàng hóa hoặc bất kỳ người thứ ba nào khác nếu những người này chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hóa. Cung cấp cho người bảo hiểm mọi giấy tờ liên quan chứng minh quyền khiếu nại của người được bảo hiểm. Căn cứ vào các giấy tờ có liên quan đến việc khiếu nại của người được bảo hiểm về tổn thất của hàng hóa thuộc phạm vi bảo hiểm trong từng vụ việc, người bảo hiểm sẽ xác định số tiền bồi thường và thanh toán cho người được bảo hiểm.

Người được bảo hiểm có trách nhiệm chuyển quyền đòi bồi thường người thứ ba (nếu có) cho người bảo hiểm. Thực hiện nghĩa vụ này, người được bảo hiểm phải chuyển cho người bảo hiểm mọi tài liệu, bằng chứng mà họ có và phải làm đầy đủ thủ tục đáp ứng yêu cầu thực hiện quyền truy đòi của người bảo hiểm đối với người thứ ba. Nếu người được bảo hiểm không làm tròn trách nhiệm này, người bảo hiểm có thể từ chối bồi thường một phần hoặc toàn bộ giá trị tổn thất. Tất cả các trách nhiệm trên của người được bảo hiểm đều được chỉ rõ trong các quy tắc, điều khoản của hợp đồng bảo hiểm và trong các văn bản luật pháp liên quan đến hoạt động bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.

Đối với trường hợp tổn thất toàn bộ ước tính xảy ra người được bảo hiểm muốn được bảo hiểm bồi thường theo tổn thất toàn bộ ước tính, thì người được bảo hiểm phải làm thông báo từ bỏ hàng và được người bảo hiểm chấp nhận. Khi thông báo từ bỏ đối tượng bảo hiểm, người được bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho người bảo hiểm những thông tin liên quan đến quyền về tài sản đối với đối tượng bảo hiểm, các khoản bảo hiểm mà người được bảo hiểm biết (Điều 61-MIA 1906 và Điều 252 Bộ luật hàng hải Việt Nam). Đây là trách nhiệm quan trọng của người được bảo hiểm khi từ bỏ đối tượng bảo hiểm, nếu vi phạm hoặc thông báo này không còn ý nghĩa thì người bảo hiểm sẽ chỉ bồi thường theo tổn thất bộ phận.

2.3.4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên bảo hiểm


(1) Quyền của bên bảo hiểm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.


Do hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng song vụ nên nghĩa vụ của bên được bảo hiểm thường tương xứng với quyền của doanh nghiệp bảo hiểm.

Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế - 8

Cũng như pháp luật về kinh doanh bảo hiểm của các nước khác, pháp luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam cũng thừa nhận các quyền của bên bảo hiểm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế như sau:

- Thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm;


- Yêu cầu bên được bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm;

- Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm nếu bên được bảo hiểm cố ý vi phạm nghĩa vụ về cung cấp thông tin, không đóng phí bảo hiểm hoặc cố ý không thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất cho hàng hóa được bảo hiểm;

- Từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Người bảo hiểm được hưởng các miễn trách theo Bộ luật hàng hải Việt Nam và những loại trừ bảo hiểm đã thỏa thuận trong hợp đồng. Theo quy định tại Điều 246 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005, trừ khi có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm về các tổn thất phát sinh trong do các nguyên nhân như: tính chất tự nhiên của hàng hóa; hàng hóa bị rò rỉ, hao hụt hoặc hao mòn tự nhiên; đóng gói không đúng quy cách hoặc không thích hợp; chậm trễ trong việc cung ứng hàng hóa; chiến tranh hoặc những hoạt động quân sự, bị cưỡng đoạt, gây rối, đình công, trưng thu, trưng dụng, trưng mua, bắt giữ, phá hủy tàu biển theo mệnh lệnh quân sự hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. (khoản 2, 3 Điều 246).

- Yêu cầu bên được bảo hiểm thực hiện các biện pháp có thể để đề phòng, hạn chế tổn thất cho hàng hóa được bảo hiểm;

- Yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền đã bồi thường cho người được bảo hiểm về những tổn thất và chi phí do người thứ ba gây ra;

- Các quyền khác theo quy định của pháp luật [4, tr. 19-20].


(2) Nghĩa vụ của bên bảo hiểm


Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm có sự "trái chiều" về thông tin, người được bảo hiểm thì biết rất rõ về đối tượng bảo hiểm, nhưng lại không biết rõ về sản phẩm mà người bảo hiểm cung cấp. Ngược lại, người bảo hiểm biết rất rõ về sản phẩm mà mình sẽ cung cấp cho khách hàng, nhưng lại không biết rõ về đối tượng bảo hiểm. Do vậy, trách nhiệm đầu tiên của người bảo hiểm cũng là trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến sản phẩm bảo hiểm. Việc cung cấp thông tin của nhà bảo hiểm cũng phải đảm bảo nguyên tắc "trung thực tối đa". Điều này đã được quy định rõ trong Luật kinh doanh bảo hiểm. Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm đã quy định:

Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản cho bên mua bảo hiểm và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin đó...

Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật [4].

Như vậy, đây là trách nhiệm theo luật buộc người bảo hiểm phải có trách nhiệm thi hành. Sau khi đã nhận được thông tin yêu cầu bảo hiểm của người được bảo hiểm, người bảo hiểm đánh giá rủi ro và trả lời bằng văn bản cho người được bảo hiểm về việc đồng ý hay từ chối bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm. Nếu chấp nhận bảo hiểm thì sau khi hợp đồng bảo hiểm được giao kết, người bảo hiểm có nghĩa vụ cấp đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Trách nhiệm này của người bảo hiểm được quy định tại DDiều 228 Bộ luật hàng hải Việt Nam và Điều 22-MIA1906.

Khi xảy ra sự cố thuộc phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm, người được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất, người bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi hoàn cho người được bảo hiểm những chi phí chi ra để thực hiện công việc đó. Quy định này xuất phát từ đạo lý: Thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất đồng nghĩa với việc gián tiếp làm giảm số tiền phải bồi thường của người bảo hiểm. Trách nhiệm này được quy định tại Điều 78.1-MIA1906: "Khi đơn bảo hiểm có điều khoản tố tụng và đề phòng tổn thất thì sự cam kết đó được coi là bổ sung vào hợp đồng bảo hiểm và người được bảo hiểm có thể đòi người bảo hiểm bồi thường mọi chi phí đã chi ra phù hợp với điều khoản …" [3]. Trong ICC1982 cũng quy định về vấn đề này - Điều 16 ICC 1982 ghi rõ: "Người bảo hiểm, ngoài trách nhiệm đối với tổn thất thuộc phạm vi bồi thường của bảo hiểm, còn phải hoàn trả người được bảo hiểm mọi khoản chi phí phải chi ra một cách hợp lý và thỏa đáng trong khi thực hiện nhiệm vụ đề phòng, hạn chế tổn thất" [10]. Các quy định của Bộ luật hàng hải Việt Nam về vấn đề này, không có gì khác biệt so với các quy định của MIA 1906 và ICC 1982. Điều 243 Bộ luật hàng hải Việt Nam ghi rõ: "Người bảo hiểm có trách nhiệm bồi

hoàn cho người được bảo hiểm mọi chi phí hợp lý và cần thiết do người được bảo hiểm sử dụng để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm…" [2].

Đối với người bảo hiểm, nghĩa vụ quan trọng nhất là phải thực thi cam kết bồi thường bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra. Một trong những căn cứ để thực hiện việc bồi thường của người bảo hiểm là dựa vào kết luận của biên bản giám định. Công việc giám định có thể do nhân viên của người bảo hiểm thực hiện song cũng có thể do một tổ chức giám định độc lập tiến hành. Khi xảy ra sự cố thuộc trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm, ngoài việc bồi thường tổn thất đối với hàng hóa, người bảo hiểm còn phải trả khoản phí giám định liên quan. Nếu người bảo hiểm từ chối bồi thường thì người bảo hiểm phải giải thích bằng văn bản lý do từ chối bồi thường cho phía người được bảo hiểm. Trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm theo quy định của Bộ luật hàng hải Việt Nam tại các điều 243, 244, 245 hoàn toàn phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.


2.4. khiếu nại đòi bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế

Quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế trong thực tiễn có thể nảy sinh hai loại khiếu nại chủ yếu sau:

- Khiếu nại đòi bồi thường tổn thất về hàng hóa được bảo hiểm của người được bảo hiểm đối với người bảo hiểm;

- Khiếu nại của người bảo hiểm đòi người vận chuyển bồi thường thiệt hại về hàng hóa trong quá trình vận chuyển và bốc dỡ.

Để làm rõ hơn về khiếu nại đòi bồi thường trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế, luận văn sẽ đề cập đến những vấn đề cơ bản có liên quan đến hai loại khiếu nại kể trên.


hiểm

2.4.1. Khiếu nại đòi bồi thường của người được bảo hiểm đối với người bảo


Khi có tổn thất xảy ra cho hàng hóa được bảo hiểm người được bảo hiểm phải làm

thủ tục khiếu nại đòi tiền bồi thường bảo hiểm.

Cơ sở khiếu nại là hợp đồng bảo hiểm, các quy tắc bảo hiểm của người bảo hiểm và pháp luật bảo hiểm của nước người bảo hiểm.

Hồ sơ khiếu nại gồm có:


- Thư khiếu nại;


- Hợp đồng bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm bản gốc;


- Hóa đơn thương mại bản copy đã ký;


- Phiếu đóng gói chi tiết;


- Vận đơn đường biển bản copy đã ký;


- Biên bản hàng đổ vỡ hoặc biên bản dỡ hàng;


- Các hóa đơn chi phí;


- Biên bản giám định gốc;


- Thông báo tổn thất cho người chuyên chở (bản copy) và phản ứng của người chuyên chở liên quan đến trách nhiệm của họ;

- Các chứng từ khác như: Kháng nghị hàng hải trong trường hợp tàu gặp thời tiết xấu, vận đơn đường bộ trong trường hợp vận chuyển đường bộ và các chứng từ khác.

Bộ luật hàng hải Việt Nam không quy định về thời hiệu khiếu nại đòi bồi thường tổn thất hàng hóa mà chỉ quy định về thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Điều 257 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải là hai năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp" [2].

Mặc dù chưa được quy định trong Bộ luật hàng hải song thời hiệu khiếu nại lại được đề cập trong Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển 1990. Tại Điều 34 QTC 1990, quy định về thời hiệu khiếu nại có ghi rõ: "Quyền đòi bồi thường của người được bảo hiểm sẽ hết hiệu lực sau hai năm kể từ ngày phát sinh quyền đó" [5]. Các Quy tắc về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển được các công ty bảo hiểm Việt Nam ban hành (ví dụ như QTC B 1995; QTC B 1998 do Bảo Việt ban hành) cũng có quy định về thời hiệu khiếu nại của người được bảo hiểm tương tự như QTC 1990.

Quy định về thời hiệu khiếu nại được đề cập trong QTC 1990 cũng như các Quy tắc bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay là phù hợp với chuẩn mực tiên tiến nhất của luật pháp và thông lệ quốc tế. Với thời hiệu khiếu nại là hai năm, người được bảo hiểm được đảm bảo một cách chắc chắn quyền đòi bồi thường của mình.

Nguyên tắc giải quyết khiếu nại là trung thực tuyệt đối và người được bảo hiểm phải đưa ra bằng chứng về tổn thất hoặc hư hại của cái mà anh ta khiếu nại.

Sau khi xác định được tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, thì công việc tiếp theo của người bảo hiểm là giải quyết khiếu nại, tính toán số tiền bồi thường và bồi thường cho người được bảo hiểm. Đây là trách nhiệm quan trọng của người bảo hiểm nhằm thể hiện chất lượng dịch vụ mà người bảo hiểm đã cung cấp cho khách hàng đồng thời khẳng định vai trò, uy tín của mình trên thị trường bảo hiểm. Tuy nhiên, đây là khâu công việc mang tính "nhạy cảm" cao, dễ làm nảy sinh tranh chấp trong quan hệ bảo hiểm.

Tranh chấp trong bồi thường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển thường phát sinh do người bảo hiểm từ chối bồi thường một phần hoặc toàn bộ tổn thất của hàng hóa được bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm không thỏa mãn với số tiền nhận được. Nếu thấy khoản tiền người bảo hiểm bồi thường cho mình không thỏa đáng hoặc lý do từ chối bồi thường không hợp lý, người được bảo hiểm có quyền khiếu nại người bảo hiểm và phần lớn các tranh chấp về bồi thường bảo hiểm hàng hóa bắt đầu phát sinh từ đây.

Nguyên nhân sâu xa của nhiều vụ tranh chấp trong bồi thường bảo hiểm hàng hóa xuất phát từ sự không rõ ràng trong các điều khoản, quy tắc bảo hiểm áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế. Việc Việt hóa các điều khoản bảo hiểm của Học hội bảo hiểm London trong quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển của Việt Nam đôi khi không chuyển tải hết được ngữ nghĩa của điều khoản nên có thể dẫn tới sự ngộ nhận và hiểu lầm của bên mua bảo hiểm.

2.4.2. Khiếu nại của người bảo hiểm đòi người vận chuyển bồi thường thiệt hại về hàng hóa

Cũng như trong tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại khác, Bộ luật hàng hải Việt Nam thừa nhận và bảo hộ quyền của người bảo hiểm yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản

tiền mà người bảo hiểm đã phải trả cho người được bảo hiểm nếu tổn thất dẫn đến việc bồi thường này do lỗi của người thứ ba gây ra.

Trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế, người thứ ba là bất kỳ một chủ thể nào khác ngoài người được bảo hiểm, chịu trách nhiệm về việc gây ra tổn thất mà người bảo hiểm phải bồi thường. Thực tế, người thứ ba trong bảo hiểm này thường là người vận chuyển. Trách nhiệm của người vận chuyển đối với tổn thất của hàng hóa thường phát sinh trong các trường hợp sau:

- Hàng giao thiếu số lượng;


- Hàng hỏng do kỹ thuật chất xếp chèn lót hàng sai;


- Hàng hỏng do tàu không đủ khả năng đi biển;


- Hàng hỏng do hầm hàng thông gió kém;


- Hàng hỏng do bị rò rỉ từ hàng khác;


- Hàng bị mất cắp khi còn nằm trong sự bảo quản của người vận chuyển.


Trong các dạng tổn thất của hàng hóa trên đây, nếu tổn thất nào thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm (căn cứ vào phạm vi, điều kiện bảo hiểm của từng hợp đồng bảo hiểm) thì người bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm và được quyền truy đòi người vận chuyển. Trường hợp tổn thất kể trên không thuộc trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm, người được bảo hiểm có quyền yêu cầu người vận chuyển bồi thường theo mức độ lỗi của họ.

Thực tế, để tránh phải bồi hoàn cho người bảo hiểm, người vận chuyển và người làm công của họ (thuyền trưởng, sĩ quan, thủy thủ) thường vin vào những lý do bất khả kháng để thoát trách. Tranh chấp giữa người bảo hiểm và người vận chuyển phát sinh từ đây.

2.4.3. Nguyên lý giải quyết tranh chấp và cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế

Mọi tranh chấp có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hóa, trước tiên thường được giải quyết bằng thương lượng.

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 30/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí