Bảng 7 cho thấy tổng giá trị đầu tư mạo hiểm vào giai đoạn khởi sự và các giai đoạn sau, đầu tư cho giai đoạn ươm tạo giảm trong suốt thời kỳ 2000 – 2003 và tăng không đáng kể trong 2 năm sau 2004 – 2006.
Bảng 7: Giá trị ĐTMH vào các giai đoạn phát triển của doanh nghiệp
Đơn vị: Triệu USD
2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | |
Giai đoạn ươm tạo và khởi sự | 342 | 78 | 81 | 48 | 150 | 103 | 236 |
Giai đoạn phát triển và mở rộng | 819 | 859 | 510 | 422 | 1.500 | 2.097 | 3.663 |
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt Động Đtmh Tại Một Số Quốc Gia Trên Thế Giới
- Khái Quát Sự Hình Thành Và Phát Triển Hoạt Động Đtmh Ở Trung Quốc
- Tỷ Lệ Vốn Đtmh Phân Theo Ngành Ở Trung Quốc Năm 2007
- Thực Trạng Và Triển Vọng Hoạt Động Đtmh Ở Việt Nam
- Thời Cơ Và Thách Thức Đối Với Sự Phát Triển Hoạt Động Đtmh Ở Việt Nam
- Một Số Bài Học Kinh Nghiệm Và Gợi Ý Chính Sách Để Phát Triển Hoạt Động Đtmh Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
Nguồn: IVCA 2007 ( India venture capital association)
3.2. Nhận xét chung
Chính phủ Ấn Độ đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và định hướng hoạt động ĐTMH tại nước này. Cho dù, một số chính sách do chính phủ ban hành đã không thu được tác dụng như mong muốn và hạn chế sự phát triển của ĐTMH trong một thời gian nhất định thì bên cạnh đó, chính phủ cũng đã tạo ra được một hành lang pháp lý cơ bản tạo điều kiện cho ĐTMH hoạt động tốt hơn. Một số nhận xét về hoạt động ĐTMH ở Ấn Độ sau khi nghiên cứu và phân tích quá trình hình thành và phát triển như sau:
ĐTMH trở thành một công cụ chủ yếu của chính phủ để thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghệ cao và tinh thần doanh nghiệp. Vốn mạo hiểm cũng là một “chất xúc tác” mạnh với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghệ thông tin. Mặc dù chính phủ Ấn Độ mong muốn ĐTMH là động lực để phát triển kinh tế nhưng nhận thức về vai trò của ĐTMH thì vẫn còn rất hạn chế. Điều mấu chốt là phải có các sáng kiến có tính hệ thống nhằm khuyến khích doanh nhân thông qua việc sử dụng các quỹ ĐTMH. Ngoài ra, việc chính phủ can thiệp quá sâu và trực tiếp vào hoạt động ĐTMH cũng đã làm mất đi tính chủ động và cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo quy định của chính phủ Ấn Độ, chỉ có 6 ngành công nghiệp được phép nhận vốn ĐTMH đó là: công nghiệp phần mềm, công nghệ thông tin, y tế, sinh học, nông nghiệp và các ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành trên. Các
quy định rườm rà của chính phủ cũng đã tạo ra một sự quản lý chồng chéo và phức tạp cản trở sự phát triển của hoạt động ĐTMH tại Ấn Độ.
ĐTMH ở Ấn Độ thiếu các chuyên gia giỏi để điều hành các quỹ mạo hiểm và các dự án kinh doanh táo bạo. Các quỹ ĐTMH nước ngoài có nhiều chuyên gia có kinh nghiệm, có thể tư vấn cho doanh nghiệp nhưng dường như chính phủ và các doanh nghiệp Ấn Độ vẫn chưa sẵn sàng mở cửa và tận dụng điều này. Các doanh nghiệp Ấn Độ nhìn chung mới chỉ tập trung tới khía cạnh kỹ thuật chứ chưa quan tâm đến việc kinh doanh thành công.
Sự phát triển của ĐTMH và sự phân chia khu công nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ và tích cực với nhau. ở các công viên công nghệ tập trung các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, chi phí quản lý và mọi chi phí khác đều thấp hơn. Việc tạo ra tinh thần kình doanh và thúc đẩy công nghệ ở các khu công nghệ cao phải trở thành nhiệm vụ chủ yếu của các nhà hoạch định chính sách.
Quỹ ĐTMH dưới sự quản lý của chính phủ thường hoạt động kém hiệu quả do vẫn mang tâm lý ngại rủi ro, và chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Các quỹ ĐTMH trong nước quá tập trung tới các dịch vụ phần mềm và kinh doanh bán lẻ chứ không phải là các sản phẩm mang tính sáng tạo cao. Sự tăng trưởng và phát triển của ngành ĐTMH của Ấn Độ thực sự bắt đầu sau khi các nhà ĐTMH nước ngoài xâm nhập thị trường Ấn Độ.
Các viện nghiên cứu và các trường đại học ở Ấn Độ thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các ý tưởng có tính khả thi là tiền đề cho sự phát triển cho sự phát triển của hoạt động ĐTMH ở Ấn Độ.
4. Hoạt động ĐTMH ở Singapore
4.1. Khái quát hoạt động ĐTMH ở Singapore
ĐTMH ở Singapore ra đời từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20. Gần 30 năm trôi qua kể từ khi hình thành, ĐTMH đã góp một phần đáng kể vào việc phát triển nền kinh tế và duy trì tính cạnh tranh của ngành này. Thị trường ĐTMH Singapore được khuyến khích bởi làn sóng đổi mới công nghệ cũng như việc ươm tạo các sáng kiến mới, táo bạo. Singapore có thể được coi là thị trường ĐTMH lớn và là một bài học thành công về vai trò của chính phủ trong việc tạo ra và thúc đẩy hoạt động
ĐTMH phát triển trong các nước có nền kinh tế mới nổi ở khu vực châu Á. Xét về mặt quy mô, ĐTMH Singapore xếp thứ 3 châu Á, sau Trung Quốc và Nhật Bản (AVCJ 2007); xét về mặt phạm vi, vốn mạo hiểm của Singapore chủ yếu tập trung vào các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và viễn thông. Các quỹ ĐTMH ở Singapore cũng được phân chia và hoạt động theo nhiều mô hình, mang phong cách của cả Mỹ (các quỹ ĐTMH hoạt động độc lập, hay còn gọi là hợp danh hữu hạn) và Nhật Bản (quỹ ĐTMH gắn liền với các định chế tài chính). Sự phân hóa thành nhiều mô hình quỹ ĐTMH như vậy là do chính sách mở cửa của chính phủ Singapore khuyến khích nhiều thành phần tham gia hoạt động ĐTMH. Vì vâỵ, ĐTMH ở Singapore là một sự kết hợp giữa nhiều dạng quỹ ĐTMH như quỹ độc lập, quỹ gắn liền với các định chế tài chính, mô hình quỹ dạng công ty. Vốn mạo hiểm được hình thành từ nhiều nguồn đa dạng như các công ty, chính phủ, ngân hàng, các quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm và thậm chí cá nhân cũng có thể góp vốn vào quỹ ĐTMH. So với năm 2001, năm 2007 đã có sự gia tăng đáng kể nguồn vốn huy động từ các ngân hàng (từ 15% lên 17%), công ty bảo hiểm (từ 10% lên 13%), quỹ hưu trí (từ 5% lên 8%). Trong khi đó nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp và chính phủ lại giảm đáng kể (xem biểu đồ 12). Nguồn vốn mạo hiểm không chỉ được huy động từ các cá nhân và tổ chức trong nước mà còn từ các nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Đây được coi là kết quả của chính sách khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động ĐTMH của Sigapore.
Biểu đồ 12: Nguồn huy động vốn ĐTMH qua các năm (2001 - 2007)
Nguồn: AVCJ 2007
Trong tổng số các quỹ ĐTMH có 40% quỹ trong nước (bao gồm cả quỹ độc lập và quỹ dạng công ty), còn lại là các quỹ nước ngoài. Thị trường ĐTMH Singapore được phân đoạn thành đầu tư theo giai đoạn và đầu tư theo ngành. Xét về việc đầu tư theo giai đoạn, các hoạt động ĐTMH được chia thành: giai đoạn ươm tạo, khởi sự và mở rộng, mua lại, phục hồi, mezzanine18. Biểu đồ 13 cho thấy ĐTMH ở Singapore chủ yếu được phân chia theo các giai đoạn: mở rộng, mua lại và sáp nhập, ươm tạo và khởi sự, trong đó giai đoạn mở rộng là chủ yếu (chiếm 40% tổng vốn đầu tư).
Đầu tư theo ngành công nghệ được chia thành sản phẩm công nghệ cao và không phải công nghệ cao, trong đó đầu tư vào ngành công nghệ cao vẫn chiếm tỷ lệ cao là 56%, tỷ lệ ở này ở các ngành khác là 44%.
6%
28%
46%
6%
14%
44%
56%
Biều đồ 13: Đầu tư theo ngành và theo giai đoạn
¦¬m t¹o Khëi sù
Quay vßng vèn Mua l¹i
Më réng
Ngµnh CNC C¸c ngµnh kh¸c
Nguồn: AVCJ 2007
Kể từ khi ra đời vào những năm 80 cho đến nay, Singapore có hơn 125 công ty quản lý quỹ ĐTMH cả trong nước và nước ngoài. Hiện tại có hơn 815 công ty nhận vốn ĐTMH với hơn 620 dự án đầu tư (EDB, 2007).
Theo số liệu về lượng vốn mạo hiểm huy động hàng năm mới đây, lượng vốn ĐTMH ở Singapore liên tục tăng đều và ổn định qua các năm, đặc biệt phát triển mạnh vào năm 1999 bất chấp hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu Á. Theo số liệu biểu đồ 14, có hai thời kỳ bùng nổ trong hoạt động ĐTMH ở Singapore. Thời kỳ thứ nhất kéo dài từ năm 1993 – 1995. Thực tế, các quỹ
18 Mezzanine: Giai đoạn “cầu nối” biểu hiện qua hai mặt: để đảm bảo khả năng thanh khoản khi kết thúc đầu tư và cơ cầu lại thành phần sở hữu trong nội bộ doanh nghiệp (thông qua MBOs/MBIs)
ĐTMH huy động được số vốn gấp 20 lần so với năm 1992. Thời kỳ thịnh vượng khác của hoạt động ĐTMH Singapore bắt đầu từ năm 1999, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đến này hoạt động này bắt đầu phục hồi và quy mô vốn ngày càng tăng.
Biểu đồ 14: Lượng vốn mạo hiểm huy động qua các năm (Đơn vị: Tỉ USD)
6000
5000
4000
3,904
3,150
5,043
4
4,57 4,800
4,200
3,0003,257
3000
1,498
1,925
2,200
2000
1000
1991
1992
1993
1994
0
90 69 492
925
1,009
1,023
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Nguồn: AVCJ 2007
4.2 Nhận xét vai trò của chính phủ Singapore đối với hoạt động ĐTMH
Sự ra đời của hoạt động ĐTMH ở Singapore có thể nói hoàn toàn là do tác động của chính phủ. Đối với chính phủ Singapore, ĐTMH là một phần của chiến lược tổng thể nhằm hướng nền kinh tế tới giai đoạn gia tăng giá trị cao hơn. Để đạt được mục tiêu này, chính phủ Singapore đã tiến hành một số biện pháp nhằm khuyến khích sự thành lập, phát triển của ngành công nghiệp ĐTMH như thành lập một số quỹ ĐTMH do chính phủ cấp vốn, ban hành các quy định, chính sách tài khóa mềm dẻo. Nhìn chung, chính phủ Singapore đã đóng vai trò chủ động trong việc tạo ra một môi trường thuận lợi dẫn tới sự tăng trưởng của ĐTMH và sự thành công của ngành công nghệ cao.
Singapore có một số lợi thế so sánh đáng kể. Đó là công nghiệp sản xuất dựa trên công nghệ cao, đặc biệt là công nghiệp sản xuất ổ đĩa cứng, chất bán dẫn. Điều này đã tạo ra một nền tảng cho sự phát triển về năng lực quản lý và kỹ thuật của các doanh nhân Singapore. Ngoài ra, Singapore còn có đội ngũ quản lý và các kỹ sư có mối quan hệ chặt chẽ với thung lũng Silicon Valley. Chính phủ nhận ra được lợi thế này và đã tập trung đầu tư vào các viện nghiên cứu và các trường đại học với hi vọng tạo ra được một đội ngũ doanh nhân vừa giỏi kinh doanh vừa am hiểu trong lĩnh vực kỹ thuật.
Năm 1999, chính phủ ban hành chương trình thúc đẩy kỹ thuật với nỗ lực nhằm khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao. Chương trình bao gồm rất nhiều sáng kiến liên quan tới hoạt động ĐTMH. Điểm quan trọng nhất của chương trình đó là việc quỹ đầu tư công nghệ (TIF) đã nhận được 1 tỷ USD để góp vốn vào các quỹ ĐTMH, công ty quản lý quỹ này là TIF Venture và tổ chức đầu tư chính phủ (GIC). Ngoài ra, TIF Venture còn quản lý 3 quỹ ĐTMH khác nữa và các quỹ này có vai trò rất lớn trong việc tài trợ trực tiếp cho các doanh nhân khởi nghiệp Singapore.
Bảng 8: Một số chương trình chính phủ Singapore xây dựng nhằm thúc đẩy hoạt động ĐTMH phát triển
Mục tiêu, chương trình xây dựng | Năm | Quy mô | |
Ủy ban ph¸t triÓn kinh tÕ (EDB) | Quü §TMH | 1985 | 100 triÖu S $ |
Ủy ban khoa häc vµ c«ng nghÖ quèc gia | Ch•¬ng tr×nh c«ng nghÖ quèc gia lÇn 1 (1991-1995) | 1991 | 2 tû S $ |
Ủy ban khoa häc vµ c«ng nghÖ quèc gia | Ch•¬ng tr×nh c«ng nghÖ quèc gia lÇn 2 (1996-2000) | 1996 | 4 tû S $ |
TIF (Technology investment fund) | Quü §TMH vµo c¸c doanh nghiÖp CNC, vµ ph¸t triÓn ho¹t ®éng §TMH ë Singapore | 1999 | 1 tû USD |
VISS (g¾n víi TIF) | Thóc ®Èy c¸c doanh nghiÖp ph¸t triÓn trong giai ®o¹n khëi ®éng | 1999 | 10 triÖu USD |
Ủy ban ph¸t triÓn kinh tÕ (EDB) | KÕ ho¹ch ph¸t triÓn c¸c doanh nghiÖp trong giai ®o¹n •¬m t¹o, vµ khëi ®éng | 2001 | 50 triÖu S $ |
Nguån: Venture capital & Economics growth: An industry overview and Singapore’s experience - Francis C C Koh & Winston T H Koh - Singapore management university.
ChÝnh phđ Singapore còng rÊt chđ ®éng trong viÖc thay ®æi vµ ®iÒu chØnh c¸c quy ®Þnh vµ ®iÒu luËt ®èi víi ho¹t ®éng §TMH ®Ó phï hîp víi bèi c¶nh kinh tÕ chung còng nh• ®Ó ®¸p øng ®•îc yªu cÇu cđa c¸c nhµ §TMH n•íc ngoµi. ChÝnh phđ ®· söa ®æi luËt ph¸ s¶n, kÕ ho¹ch quyÒn chän chøng kho¸n qu¶n lý vµ hÖ thèng rhuÕ nh»m thóc ®Èy ho¹t ®éng §TMH ph¸t triÓn. §iÒu ®ã cã nghÜa lµ chÝnh phđ
Singapore rÊt tÝch cùc trong viÖc t¹o ra mét m«i tr•êng thuËn lîi võa ®Ó thu hót c¸c nhµ §TMH n•íc ngoµi, võa phôc vô tèt ho¹t ®éng §TMH trong n•íc.
Ngoµi ra, chÝnh phđ Singapore cßn nç lùc nh»m ®•a Singapore trë thµnh trung t©m kinh tÕ, tµi chÝnh cđa khu vùc §«ng Nam ¸ vµ ®ãng vai trß lµ “cöa ngâ” trong viÖc tiÕp cËn thÞ tr•êng §TMH Ấn Độ. Ở đây, mục đích của chính phủ Singapore là tận dụng lợi thế về hạ tầng cơ sở ngành giao thông vận tải và bưu chính viễn thông cũng như chính sách tài chính và luật pháp minh bạch, hiệu quả để khuyến khích sự thành lập các quỹ ĐTMH nước ngoài tại Singapore. Trong vòng 4 thập kỷ qua, Singapore đã trở thành nơi đóng trụ sở của nhiều công ty đa quốc gia có hoạt động ở Đông Nam á. Thông qua điều này, chính phủ Singapore muốn tiếp cận thị trường ĐTMH Ấn Độ, bởi Ấn Độ là một quốc gia có ngành công nghệ cao phát triển và đang là điểm đến của các nhà ĐTMH nước ngoài. Nếu làm được điều này, các nhà ĐTMH Singapore có cơ hội đầu tư vào các ngành khoa học kỹ thuật đầy lợi nhuận của Ấn Độ và hướng tới thung lũng Silicon Valley - trung tâm ĐTMH của thế giới. Như vậy, một mặt chính phủ Singapore cố gắng thu hút các nhà ĐTMH nước ngoài hoạt động tại Singapore bằng các ưu đãi rất lớn, mặt khác, chính phủ tạo điều kiện cho các quỹ ĐTMH trong nước vươn ra thị trường nước ngoài. Đây là chính sách có tầm chiến lược của quốc gia không có lợi thế so sánh về lĩnh vực công nghệ cao như Singapore. Tuy nhiên chính phủ Singapore lại rất biết tận dụng lợi thế về trình độ của đội ngũ lao động cũng như ưu thế của các trường đại học và viện nghiên cứu danh tiếng.
Nỗ lực của chính phủ Singapore nhằm thiết lập ngành ĐTMH được đánh giá là ấn tượng nhất khu vực châu Á. Nỗ lực đó kết hợp rất nhiều biện pháp hỗ trợ, bao gồm việc khuyến khích các sáng kiến về công nghệ cao từ các trường đại học và viện nghiên cứu cũng như việc sẵn sàng đầu tư để thu hút các nhà ĐTMH. Ngoài ra, thông qua thị trường chứng khoán SESDAQ, chính phủ đã xây dựng được nguồn cầu đối với các chứng khoán lần đầu phát hành ra công chúng. Cuối cùng, nỗ lực của chính phủ được đánh giá cao qua việc thay đổi môi trường pháp lý để khuyến khích quá trình ĐTMH, và quan trọng hơn là hệ thống tài chính minh bạch và
không có dấu hiệu tham nhũng của Singapore cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công của ngành ĐTMH ở nước này.
Chương Hai đã tiến hành nghiên cứu thực trạng hoạt động ĐTMH tại một số nước tiêu biểu trên thế giới. Mỗi nước lại có những đặc điểm riêng trong quá trình hình thành và phát triển hoạt động ĐTMH. Ở Mỹ, hoạt động ĐTMH rất phát triển và thành công, trong khi các quốc gia ở Châu âu có những điều kiện thuận lợi nhưng hoạt động ĐTMH vẫn chưa phát huy hết vai trò của nó đối với nền kinh tế. Hoạt động ĐTMH ở châu Á có những đặc trưng riêng biệt so với hoạt động ĐTMH trên thế giới, thể hiện ở chỗ chính phủ có vai trò to lớn trong việc hình thành và phát triển ĐTMH và ĐTMH có mối quan hệ chặt chẽ với lĩnh vực công nghệ. Một số nước ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ có tiềm năng phát triển công nghệ cao nhưng lại không thành công về mặt ĐTMH. Trong khi đó Singapore, quốc gia trong khu vực ASEAN với Việt Nam, hoạt động ĐTMH ở đây diễn ra rất thành công, và góp phần không nhỏ cho phát triển kinh tế của Singapore. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, trong thời gian tới hoạt động ĐTMH trên thế giới sẽ rất sôi động, đặc biệt là ở các nước tiêu biểu đã đề cập đến ở Chương Hai. Việc nghiên cứu những đặc điểm của ĐTMH ở một số khu vực trên thế giới sẽ là cơ sở để tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong việc hình thành và phát triển ĐTMH trong thời gian tới.