Các viện nghiên cứu và các trường đại học ở Ấn Độ thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các ý tưởng có tính khả thi là tiền đề cho sự phát triển cho sự phát triển của hoạt động ĐTMH ở Ấn Độ.
3. Đầu tư mạo hiểm tại Đài Loan10
Trong lĩnh vực ĐTMH, nếu xét về quy mô vốn thì Đài Loan chưa thể bằng ấn Độ hay Singapore, tuy nhiên đứng về mặt số lượng các doanh nghiệp khởi sự và các nhà đầu tư thành công, Đài Loan là một bài học kinh nghiệm thành công về việc thu hút vốn ĐTMH ở châu Á. Nguyên nhân để Đài Loan đạt được kết quả to lớn này là Chính phủ Đài Loan nhận thức được vai trò to lớn trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, chú trọng vào ngành điện tử làm ngành công nghiệp chủ chốt của đất nước và đầu tư cho hoạt động giáo dục. Các nhân tố này tạo ra một môi trường trong đó sự tăng trưởng về công nghiệp và ĐTMH có mối quan hệ qua lại lần nhau nhằm thúc đẩy các hoạt động của doanh nghiệp nói chung. Lịch sử ngành ĐTMH Đài Loan gắn liền với sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin ở nước này. Một điều quan trọng là sự phát triển của ngành ĐTMH phải kể tới là vai trò quan trọng của Chính phủ Đài Loan trong việc tham gia vào sự sáng lập quỹ ĐTMH.
Mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của hoạt động ĐTMH ở Đài Loan đó là vào năm 1985, Quỹ phát triển Yuan và ngân hàng Chiao Tung thành lập chung một quỹ đầu tư với khoản tài trợ là 800 triệu NT11. Đây được coi là quỹ ĐTMH đầu tiên hoạt động tại Đài Loan. Sau đó, vào năm 1991, nguồn vốn ban đầu của quỹ đã lên tới 2,4 tỷ NT và cùng với việc tài trợ cho 16 quỹ mạo hiểm ban đầu, các quỹ này đã tạo ra một tác động lan truyền tới các nhà đầu tư khác. Đồng thời điều này cũng đã tạo tiền đề cho sự bùng nổ của lĩnh vực ĐTMH trong những năm sau đó.
a. Các kết quả đạt được
10 Trên thế giới hiện nay có nhiều nước công nhận Đài Loan là một quốc gia có chủ quyền. VIệt Nam chỉ công nhận Đài Loan là một vùng lãnh thổ thuộc Trung Quốc và ủng hộ Trung Quốc thu hồi lại. Tuy nhiên trong Khoá luận này tác giả xin được nghiên cứu hoạt động ĐTMH tại Đài Loan như một nền kinh tế độc lập có sự quản lý của chính phủ
11 NT: New Taiwan Dollars - đơn vị tiền tệ của Đài Loan; tỉ giá giữa NT$ và US$ giao động giữa khoảng từ 1 US$ = 27NT$ và 1US$ = 34.5 NT$
Thị trường vốn mạo hiểm ở Đài Loan đã trải qua sự tăng trưởng nhanh đến chóng mặt, đặc biệt là trong thời kỳ từ 1997- 1999, ngành ĐTMH ở Đài Loan thành công chưa từng có từ trước đến nay. Điều đó được thể hiển qua bảng 6, số lượng quỹ ĐTMH tại Đài Loan tăng đều đặn và ổn định qua từng năm. Đến đầu quý I năm 2006, có 261 quỹ ĐTMH đang hoạt động ở Đài Loan với tổng số vốn đầu tư là 210 tỷ $ NT. Gần hai thập kỷ kể từ ngày ra đời, ngành ĐTMH, dưới sự chỉ đạo của chính phủ đã tăng trưởng nhanh và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Đến cuối năm 2005, quỹ ĐTMH của Đài Loan đầu tư vào 5,593 công ty trên các lĩnh vực thông tin, chất bán dẫn, phần mềm, công nghệ sinh học, y tế và tin học viễn thông. Sự đầu tư vốn mạo hiểm thực sự là chất xúc tác cho sự phát triển ngành công nghệ cao ở Đài Loan.
Bảng 6
Số lượng quỹ ĐTMH tại Đài Loan
84 | 85 | 86 | 87 | 88 | 89 | 90 | 91 | 92 | 93 | 94 | 95 | 96 | 97 | 98 | 99 | |
Số lượng | 1 | 2 | 3 | 6 | 9 | 13 | 20 | 22 | 24 | 27 | 28 | 34 | 53 | 74 | 124 | 132 |
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - 4
- Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Đầu Tư Mạo Hiểm Trên Thế Giới
- Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - 6
- Một Số Kết Luận Rút Ra Từ Hoạt Động Đầu Tư Mạo Hiểm Tại Các Nước Châu Á
- Sự Cần Thiết Của Việc Hình Thành Và Phát Triển Đầu Tư Mạo Hiểm Ở Việt Nam
- Những Thuận Lợi Và Khó Khăn Trong Việc Hình Thành Và Phát Triển Đtmh Ở Việt Nam Trong Thời Gian Vừa Qua
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Nguồn: AVCJ 2005
Từ khi chính phủ cho ra đời quy định vào năm 1993, khả năng sinh lời của các quỹ ĐTMH tăng đều qua các năm. Mặc dù lợi nhuận của các quỹ ĐTMH trước năm 1993 chỉ đạt ở mức trung bình thì sau thời gian này, mức trung bình trên một cổ phiếu tăng trên $ NT. Năm 1998 là một năm đặc biệt bởi vì sự tăng trưởng kỳ diệu của ngành công nghệ thông tin và chất bán dẫn đưa 20 quỹ ĐTMH hàng đầu đạt mức lợi nhuận trung bình trên một cổ phiếu đạt được là 4,61 $NT.
Bảng 7 cho thấy, ĐTMH ở Đài Loan chủ yếu tập trung vào giai đoạn khởi sự và mở rộng là chủ yếu. Tuy nhiên, ĐTMH vào giai đoạn khởi sự giảm dần theo các năm, còn ĐTMH cho giai đoạn mở rộng lại tăng lên. Giai đoạn ươm tạo chiếm tỷ lệ rất nhỏ do rủi ro trong giai đoạn này là rất cao.
Bảng 7
ĐTMH ở Đài Loan vào các giai đoạn qua các năm (Đơn vị: %)
1998 | 1999 | 2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 |
6 | 4 | 8 | 9 | 15 | 8 | 7 | 6 | |
Khởi sự | 28 | 23 | 14 | 13 | 16.1 | 16 | 19 | 23 |
Mở rộng | 41 | 41 | 42 | 48 | 55.2 | 50 | 49 | 47 |
Mezzaine | 24 | 30 | 36 | 28 | 16.5 | 24 | 22 | 22 |
Khác | 1 | 2 | 1 | 2 | 1.7 | 2 | 3 | 2 |
Nguồn: AVCJ 2005
Mặc dù ĐTMH là một hoạt động nằm trong chiến lược của chính phủ nhằm phát triển ngành công nghệ cao và gắn liền với lĩnh vực điện tử nên sự phát triển của ĐTMH đã kéo theo sự tăng trưởng kỳ diệu của ngành công nghiệp điện tử ở Đài Loan. Tuy nhiên, tỷ lệ ĐTMH theo ngành (xem biểu đồ 4) cho thấy ngành công nghiệp điện tử không phải là lĩnh vực nhận được vốn mạo hiểm nhiều nhất. Nguyên nhân của điều này là thị trường cho các lĩnh vực công nghệ cao ở Đài Loan không được xem là đủ nguồn lực cho các nhà ĐTMH. Thay vào đó, tiêu dùng là lĩnh vực nhận được lượng vốn mạo hiểm lớn nhất (25,1%), đây cũng là một điểm đặc biệt của hoạt động ĐTMH tại Đài Loan, làm cho ĐTMH của nước này có sự khác biệt lớn so với hoạt động ĐTMH trên thế giới nói chung và châu Á nói riêng.
Biểu đồ 4
Tỷ lệ ĐTMH theo ngành (đơn vị %)
11.7 24.6
2.1
15.3
9.2
25.1
7.5
2.1
2.4
Công nghệ thông tin Viễn thông
Phần mềm Y tế
Tiêu dùng
Ngành liến quan đến máy tính Năng lượng
Điện tử
Dịch vụ tài chính Khác
Nguồn: AVCJ 2005
Một kết quả quan trọng trong lĩnh vực ĐTMH của Đài Loan đó là nước này đã thành công trong việc “xuất khẩu” ĐTMH. Mỗi một quỹ ĐTMH ở Đài Loan đều có văn phòng đại diện ở Vịnh San Francisco, Mỹ và đầu tư khoảng 20 – 30 % lượng vốn mà quỹ có ra nước ngoài (theo Tạp chí ĐTMH châu Á). Khoảng 40% quỹ ĐTMH Đài Loan khi được hỏi đều cho biết sẵn sàng đầu tư vốn mạo hiểm ra nước
ngoài. Trong vòng hai năm trở lại đây, các nhà ĐTMH Đài Loan bắt đầu chú ý đến Thượng Hải và đã thành lập các chi nhánh sản xuất ở khu vực này.
Đài Loan được xem là có hoạt động ĐTMH giống mô hình hoạt động ĐTMH ở Mỹ nhất nếu so với các nước châu á khác. Ngày nay, Đài Loan đang sở hữu một ngành công nghiệp ĐTMH phát triển theo định hướng hỗ trợ công nghệ cao năng động và thành công nhất khu vực châu á. Đóng góp vào sự thành công này có vai trò to lớn của chính phủ Đài Loan trong việc tạo ra một môi trường thuận lợi có khả năng thúc đẩy hoạt động ĐTMH phát triển.
Để thấy được tại sao hoạt động ĐTMH ở Đài Loan đã phát triển và đạt được kết quả như vậy, cần thiết phải tìm hiểu chính phủ Đài Loan đã đóng vai trò quan trọng như thế nào trong việc thúc đẩy ĐTMH trở thành một ngành kinh tế chủ lực của đất nước.
b. Vai trò của chính phủ đối với hoạt động ĐTMH
Chính phủ Đài Loan bắt đầu tác động đến hoạt động ĐTMH từ năm 1993 bằng cách ban hành “Những quy định quản lý các quỹ ĐTMH”, trong đó yêu cầu về vốn tối thiểu, quy mô đầu tư, về quản lý và giám sát các doanh nghiệp ĐTMH. Điểm quan trọng trong quy định này là ưu đãi về thuế đối với các cá nhân muốn góp vốn vào các quỹ ĐTMH chuyên nghiệp. Tỷ lệ giảm thuế đối với các cá nhân này lên tới 20% chỉ với một điều kiện là cá nhân đó duy trì nguồn vốn đầu tư của mình cho quỹ ít nhất là trong vòng 2 năm. Để chứng minh, việc đầu tư này phải được tiến hành bởi một quỹ ĐTMH được Bộ Tài chính cấp phép hoặc một quỹ ĐTMH nước ngoài thực hiện chuyển giao công nghệ vào Đài Loan. Ngoài ra, đầu tư vốn mạo hiểm ra nước ngoài cũng được chấp nhận miễn là điều đó có lợi cho Đài Loan. Đây là một tác động tích cực của chính phủ bởi vì nó cho phép các nhà ĐTMH Đài Loan có thể tiếp cận được với hoạt động ĐTMH trên thế giới, đặc biệt là ở thung lũng Sillicon của Mỹ. Mỗi dự án đầu tư sẽ được một công ty kiểm toán kiểm tra và xác nhận có đủ điều kiện để được miễn giảm thuế hay không. Ngoài ra, theo quy định này thì 80% thu nhập từ hoạt động ĐTMH của doanh nghiệp hoặc cá nhân sẽ được miễn giảm thuế trong năm tài chính hiện hành, với thời gian ưu đãi là một năm. Bên cạnh đó, nhà đầu tư muốn tái đầu tư khoản thu nhập của mình từ hoạt động ĐTMH được
phép giảm thuế hoặc hoàn thuế trong năm đó. Điều này khuyến khích các nhà đầu tư góp vốn vào nhiều quỹ ĐTMH để tái đầu tư khoản thu nhập của mình. Chính phủ Đài Loan cũng ban hành các biện pháp nhằm bảo đảm sự tăng trưởng của hoạt động ĐTMH. Một trong những biện pháp đó là chính phủ sẵn sàng đầu tư vốn vào các quỹ ĐTMH với một điều kiện đây là quỹ ĐTMH đó phải do tư nhân thành lập.
Mặt khác, chính phủ Đài Loan cũng đặt ra các quy định về lĩnh vực phù hợp để ĐTMH, trong đó nhà ĐTMH không được đầu tư vào các ngành như chứng khoán, bất động sản và các hoạt động bán lẻ. Các biện pháp này của chính phủ đã có tác dụng rõ rệt khi hiệu quả của hoạt động ĐTMH được đánh giá là tăng gấp mười lần chỉ trong vòng hai năm (1992 – 1994) sau việc ban hành các quy định như vậy.
Theo định hướng của chính phủ, có hai chiến lược ĐTMH được áp dụng, một là cho các hoạt động đầu tư trong nước và một cho các hoạt động đầu tư ở Mỹ. ở Đài Loan, các hoạt động ĐTMH được tập trung vào các doanh nghiệp có khả năng tận dụng được lợi thế để giảm chi phí sản xuất, đầu tư vào các sản phẩm chứa hàm lượng công nghệ cao để tung ra thị trường. ở Mỹ, vốn mạo hiểm được đầu tư vào những công ty có người sáng lập hay đồng sáng lập là người Trung Quốc để tận dụng được năng lực sản xuất của Đài Loan ở các công ty này.
Chính phủ cũng có quy định rất “thoáng” trong việc hình thành mô hình quỹ ĐTMH. Đó là các công ty quản lý quỹ điều hành một số thành viên gọi là “quỹ”, huy động vốn từ các cá nhân giàu có, quỹ hưu trí, các tổ chức tài chính và phi tài chính. Các nhà ĐTMH có tính chuyên nghiệp và am hiểu về lĩnh vực công nghệ, còn các nhà đầu tư vốn là các thành viên có trách nhiệm hữu hạn đối với phần vốn góp của mình. Các quỹ có thời gian hoạt động từ 7 – 10 năm và sau đó có thể giải thể. Thông thường, mỗi công ty quản lý quỹ có nhiều hơn một thành viên.
Môi trường đầu tư cũng được cải thiện kể từ năm 1994 trở đi khi thì trường chứng khoán ở Đài Loan phát triển và do đó, lợi nhuận của các nhà ĐTMH cũng được tăng lên theo. Sự phát triển đó có thể tóm tắt trong ba nguyên nhân sau: (1) Đài Loan học tập được kinh nghiệm từ sự bùng nổ của “nền kinh tế mới” và sau đó là cơn sốt giá cổ phiếu công nghệ khi hoạt động công nghệ thông tin trên toàn cầu
phát triển mạnh. (2) quy định về ưu đãi thuế năm 1991 đã góp phần làm tăng nguồn vốn mạo hiểm, (3) năng lực của ngành công nghệ ở Đài Loan đã có những bước tiến đáng kể và có mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp Mỹ.
4. Singapore
a. Bối cảnh chung
ĐTMH ở Singapore ra đời từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20. Gần 30 năm trôi qua kể từ khi hình thành, ĐTMH đã góp một phần đáng kể vào việc phát triển nền kinh tế và duy trì tính cạnh tranh của ngành này. Thị trường ĐTMH Singapore được khuyến khích bởi làn sóng đổi mới công nghệ cũng như việc ươm tạo các sáng kiến mới, táo bạo. Singapore có thể được coi là thị trường ĐTMH lớn và là một bài học thành công về vai trò của chính phủ trong việc tạo ra và thúc đẩy hoạt động ĐTMH phát triển trong các nước có nền kinh tế mới nổi ở khu vực châu á. Xét về mặt quy mô, ĐTMH Singapore xếp thứ 3 châu Á, sau Hongkong và Nhật Bản (AVCJ 2005); xét về mặt phạm vi, vốn mạo hiểm của Singapore chủ yếu tập trung vào các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và viễn thông. Các quỹ ĐTMH ở Singapore cũng được phân chia và hoạt động theo nhiều mô hình, mang phong cách của cả Mỹ (các quỹ ĐTMH hoạt động độc lập, hay còn gọi là hợp danh hữu hạn) và Nhật Bản (quỹ ĐTMH gắn liền với các định chế tài chính). Sự phân hóa thành nhiều mô hình quỹ ĐTMH như vậy là do chính sách mở cửa của chính phủ Singapore khuyến khích nhiều thành phần tham gia hoạt động ĐTMH. Vì vâỵ, ĐTMH ở Singapore là một sự kết hợp giữa nhiều dạng quỹ ĐTMH như business angles, quỹ độc lập, quỹ gắn liền với các định chế tài chính, mô hình quỹ dạng công ty. Vốn mạo hiểm được hình thành từ nhiều nguồn đa dạng như các công ty, chính phủ, ngân hàng, các quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm và thậm chí cá nhân cũng có thể góp vốn vào quỹ ĐTMH. So với năm 1999, năm 2005 đã có sự gia tăng đáng kể nguồn vốn huy động từ các ngân hàng (từ 14% lên 16%), công ty bảo hiểm (từ 10% lên 12%), quỹ hưu trí (từ 5% lên 9%). Trong khi đó nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp và chính phủ lại giảm đáng kể (xem biểu đồ 5). Nguồn vốn mạo hiểm không chỉ được huy động từ các cá nhân và tổ chức trong nước mà còn từ các nhà đầu tư
nước ngoài, bao gồm Mỹ, EU và Nhật Bản. Đây được coi là kết quả của chính sách khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động ĐTMH của Sigapore.
Biểu đồ 5
Nguồn huy động vốn đầu tư mạo hiểm qua các năm (1999 – 2005)
Doanh nghiệp
7%
10%
12%
16%
5% 2% 43%
Chính phủ Ngân hàng
Công ty bảo hiểm
Tư nhân
5% 9% 1%
37%
14%
Quỹ hưu trí
19%
Khác
20%
Nguồn: AVCJ 2005
Trong tổng số các quỹ ĐTMH có 40% quỹ trong nước (bao gồm cả quỹ độc lập và quỹ dạng công ty), còn lại là các quỹ nước ngoài. Thị trường ĐTMH Singapore được phân đoạn thành đầu tư theo giai đoạn và đầu tư theo ngành. Xét về việc đầu tư theo giai đoạn, các hoạt động ĐTMH được chia thành: giai đoạn ươm tạo, khởi sự và mở rộng, mua lại, phục hồi, mezzanine12. Biểu đồ 6 cho thấy ĐTMH
ở Singapore chủ yếu được phân chia theo các giai đoạn: mở rộng, mua lại và sáp nhập, ươm tạo và khởi sự, trong đó giai đoạn mở rộng là chủ yếu (chiếm 40% tổng vốn đầu tư).
Đầu tư theo ngành công nghệ được chia thành sản phẩm công nghệ cao và không phải công nghệ cao, trong đó đầu tư vào ngành công nghệ cao vẫn chiếm tỷ lệ áp đảo là 64%, tỷ lệ ở này ở các ngành khác là 36%.
Biều đồ 6
Đầu tư theo ngành và theo giai đoạn
12 Mezzanine: Giai đoạn “cầu nối” biểu hiện qua hai mặt: để đảm bảo khả năng thanh khoản khi kết thúc đầu tư và cơ cầu lại thành phần sở hữu trong nội bộ doanh nghiệp (thông qua MBO/MBI)
Mezzanin e, 10%
Ươm tạo, 4%
Khởi sự, 26%
Ươm tạo Khởi sự Phục hồi
36%
Mua lại
Phục hồi,
64%
Mở rộng, 44%
Mua lại, 12%
4% Mở rộng
Ngành công nghệ cao Các ngành khác
Mezzanine
Nguồn: AVCJ 2005
Kể từ khi ra đời vào những năm 80 cho đến nay, Singapore có hơn 115 công ty quản lý quỹ ĐTMH cả trong nước và nước ngoài. Hiện tại có hơn 635 công ty nhận vốn ĐTMH với hơn 500 dự án đầu tư (EDB, 2005).
Theo số liệu về lượng vốn mạo hiểm huy động hàng năm mới đây, lượng vốn ĐTMH ở Singapore liên tục tăng đều và ổn định qua các năm, đặc biệt phát triển mạnh vào năm 1999 bất chấp hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu Á. Theo số liệu biểu đồ 8, có hai thời kỳ bùng nổ trong hoạt động ĐTMH ở Singapore. Thời kỳ thứ nhất kéo dài từ năm 1993 – 1995. Thực tế, các quỹ ĐTMH huy động được số vốn gấp 20 lần so với năm 1992. Thời kỳ thịnh vượng khác của ngành ĐTMH Singapore bắt đầu từ năm 1999, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Năm 1999, lượng vốn mạo hiểm huy động được cao nhất trong lịch sử phát triển ngành ĐTMH Singapore.