Chương Hai đã tiến hành nghiên cứu thực trạng hoạt động ĐTMH tại một số nước châu Á là Trung Quốc, Trung Quốc, Singapore và Đài Loan. Đây là các nước có nền kinh tế khá phát triển, có những điều kiện để hình thành và phát triển hoạt động ĐTMH khá tương đồng với Việt Nam và hoạt động ĐTMH ở các nước này xuất hiện cách đây chưa lâu. Ở một số nước, ĐTMH được coi là thành công tại khu vực châu Á như Đài Loan, Singapore. Một số nước khác, như Ấn Độ, Trung Quốc có tiềm năng phát triển công nghệ cao nhưng lại không thành công về mặt ĐTMH. Tuy ĐTMH ở châu Á ra đời khá muộn so với các nước khác trên thế giới nhưng nó đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần phát triển kinh tế của đất nước. ĐTMH ở châu Á có những đặc trưng riêng biệt so với hoạt động ĐTMH nói chung trên thế giới, thể hiện ở chỗ chính phủ có vai trò to lớn trong việc hình thành và phát triển ĐTMH và ĐTMH có mối quan hệ chặt chẽ với lĩnh vực công nghệ. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, thế kỷ 21 sẽ chứng kiến sự thành công rực rỡ của các nền kinh tế châu Á và đây cũng là khu vực được dự báo sẽ là thị trường sôi động nhất của ĐTMH trong thời gian sắp tới. Việc nghiên cứu những đặc điểm của ĐTMH ở một số nước châu Á sẽ là cơ sở để tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong việc hình thành và phát triển ĐTMH trong thời gian tới.
CHƯƠNG BA
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM
I. Sự cần thiết của việc hình thành và phát triển đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
Tình hình thực tế của Việt Nam đã cho thấy nhu cầu cấp bách phát triển hình thức đầu tư mạo hiểm để thúc đẩy phát triển kinh tế. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, phát triển một số ngành công nghệ cao là nhu cầu bức thiết đối với nền kinh tế Việt Nam. Tỷ trọng hàng hoá công nghệ cao trong nền kinh tế còn thấp . Định hướng phát triển những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao là một trong những chiến lược trong định hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta. Ví dụ, Việt nam đã xây dựng định hướng phát triển công nghiệp phần mềm, trong đó xác định đây là một trong những ngành mũi nhọn trong 10 năm tới. Theo chiến lược, tốc độ phát triển của ngành sẽ đạt khoảng 20-25% hàng năm từ nay đến 2005. Đến năm 2010, ngành này sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu 50.000 USD. So với tiềm năng hiện có về nguồn nhân lực, mục tiêu này hoàn toàn không phải là không khả thi. Chính vì vậy, hình thành và phát triển ĐTMH sẽ hỗ trợ đáng kể và giúp cho Việt nam đạt được những mục tiêu nêu ra trong chiến lược phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao của mình.
Thứ hai, hiện nay, ở Việt nam, kênh tài trợ cho những ý tưởng sáng tạo mới còn rất ít. Hàng năm, ngân sách nhà nước mới tài trợ cho các dự án nghiên cứu, mà các kết quả nghiên cứu này mới dừng lại trên giấy tờ, chưa có nguồn vốn để triển khai trên thực tế. Nhiều ý tưởng sáng tạo hiện nay không phải là hiếm nhưng lại thiếu nguồn vốn để triển khai. Ví dụ như giải thưởng VIFOTECH hàng năm nhận được 2000 dự án dự thi giải thưởng sáng tạo. Mỗi năm, Quỹ đã cấp giải thưởng cho hơn 200 dự án những trong số đó chỉ khoảng một nửa có thể tìm được nguồn vốn để thực hiện ý tưởng trên thực tế. Nhiều dự án mặc dù đã được ban giám khảo khằng định là có khả năng thương mại hoá và có khả năng ứng dụng nhưng đã không tìm được nguồn vốn tài trợ.
Thứ ba, đầu tư cho KH&CN hiện nay ở Việt nam chủ yếu là đầu tư từ nhà nước, chiếm khoảng hơn 60%, năm 2000 lên đến 90%. Đầu tư của khu vực doanh nghiệp và từ các nguồn khác cho phát triển KH&CN là rất ít. Trong khi đó, ở các nước khác nguồn đầu tư của doanh nghiệp chiếm hơn 50%, có nước lên đến 70% tổng đầu tư cho KH&CN. Trong bối cảnh đó, phát triển hình thức ĐTMH là một cách để đa dạng hoá nguồn vốn cho phát triển KH&CN do: (i) ĐTMH vào giai đoạn đầu của những dự án công nghệ mới chính là những khảon đầu tư phát triển công nghệ mới; (ii) theo kinh nghiệm của các nước, những doanh nghiệp dựa trên ý tưởng công nghệ mới này nếu phát triển thành công sẽ đầu tư nhiều hơn cho KH&CN trong quá trình phát triển của chúng.
Thứ tư, một trong những bất cập hiện nay mà Chính phủ cũng đã nhận thức được là tính hiệu quả chưa cao trong đầu tư của ngân sách nhà nước cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Một trong những lý do mà như đã trình bày ở trên là những khoản đầu tư này chỉ dừng lại ở giai đoạn nghiên cứu ban đầu mà không có khoản vốn để triển khai những kết quả nghiên cứu đó. Trong thời gian tới, Chính phủ phải có những biện pháp để khuyến khích nguồn vốn đầu tư cho giai đoạn triển khai những kết quả nghiên cứu. Một trong những giải pháp cho vấn đề này là phát triển hình thức ĐTMH. So với các phương án như gia tăng nguồn tài trợ cho triển khai những kết quả nghiên cứu, hay còn gọi là thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu, việc chính phủ khuyến khích phát triển hình thức ĐTMH sẽ mang lại hiệu quả hơn. Bởi vì, như đã trình bày ở trên, ĐTMH với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận trong hoạt động của mình sẽ có cơ chế lựa chọn những dự án công nghệ cao/mới mà phù hợp với nhu cầu của thị trường và mang lại hiệu quả lớn nhất. Ngoài ra, ĐTMH có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, nhất là nguồn vốn nước ngoài tham gia đầu tư cho triển khai những ý tưởng sáng tạo mới. Như vậy, việc hình thành và phát triển ĐTMH sẽ phù hợp với chủ trương sắp tới của Nhà nước về thương mại hoá các sản phẩm KHCN và khuyến khích phát triển KH&CN.
Thứ năm, thực tế Việt nam cho thấy, đa số cán bộ nghiên cứu khoa học và công nghệ hầu hết làm việc trong các Viện nghiên cứu, trường đại học. Rất ít cán bộ nghiên cứu làm việc trong các doanh nghiệp. Như vậy, những người có tiềm năng
đưa ra các ý tưởng sáng tạo mới phần lớn là những người thuần tuý làm công tác khoa học và công nghệ. Những người này có kiến thức chuyên môn và các ý tưởng đổi mới sáng tạo nhưng ít có các kinh nghiệm quản lý và kinh doanh. Chính vì vậy, nếu nhận được tài trợ dưới hình thức ĐTMH, những người này sẽ được hỗ trợ/tư vấn cả về những kiến thức quản lý kinh doanh của các nhà quản lý ĐTMH chuyên nghiệp. Điều đó sẽ rất giúp ích rất nhiều cho những người có ý tưởng kinh doanh mới và giúp cho doanh nghiệp đó thành công.
Thứ 6, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc dân. Đây là lực lượng đông đảo trong nền kinh tế, chiếm số lượng lớn cả về quy mô vốn, nhân lực cũng như số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đảng và Nhà nước ta cũng đặc biệt quan tâm tới khu vực kinh tế này và xác định đây sẽ là một trong những động lực chính nhằm phát triển kinh tế đất nước. ĐTMH sẽ là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
II.Thực trạng hoạt động đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Hình thức ĐTMH xuất hiện đầu tiên ở Việt nam từ đầu những năm 1990, khi Việt nam đang trong cao trào của chính sách mở cửa, dòng đầu tư nước ngoài chảy ồ ạt vào Việt nam. Đây cũng là lúc các nhà đầu tư mạo hiểm nước ngoài quan tâm đến thị trường Việt nam và bắt đầu tiến hành hoạt động ở nước ta. Kể từ năm 1990 đến nay, ĐTMH có thể nói đã có nhiều thay đổi thăng trầm. Căn cứ vào sự thăng trầm đó và những đặc điểm của ĐTMH trong từng thời kỳ mà có thể chia quá trình hình thành và phát triển của ĐTMH ở Việt Nam thành 2 giai đoạn: giai đoạn 1990- 2002 và từ 2002 đến nay.
1. Giai đoạn 1990-2002
Từ năm 1990 đến năm 1992, Việt nam đã thu hút được 6 Quỹ ĐTMH13 của các nhà đầu tư nước ngoài sang hoạt động. Các quỹ này có những đặc điểm chính như sau:
13 Đó là các quỹ Vietnam Fund (1991), Beta Vietnam Fund (1994), Vietnam Frontier Fund (1994), Lazard Vietnam Fund (1994), Templeton Vietnam Opportunity Fund (1994). Vietnam Enterprise Investment Ltd. (1991)
Về hình thức hoạt động: Trong thời gian này, do chưa có qui định luật pháp cho loại hình đầu tư này, nên các quỹ ĐTMH này chỉ mở văn phòng đại diện ở Việt nam. Các quỹ này huy động vốn ở nước ngoài, niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài. Một số quỹ đầu tư hoàn toàn cho thị trường Việt nam, trong khi một số đầu tư cho cả một số nước trong khu vực châu á, trong đó có Việt nam.
Về qui mô: Các quỹ này có qui mô vốn trung bình, dao động từ 20-80 triệu USD mỗi quỹ. Quy mô mỗi dự án các quỹ đầu tư cũng thường nhỏ, khoảng từ 0,5 đến 2 triệu USD một dự án.
Về đội ngũ cán bộ của Quỹ: những cán bộ quản lý chủ chốt là người nước ngoài. Đây là những người có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn, đã hoạt động nhiều trong ngành tài chính nói chung và ĐTMH nói riêng. Nhân viên Việt Nam trong quỹ ít, chủ yếu đóng vai trò hỗ trợ (xem Bảng 8).
Về danh mục đầu tư: Danh mục đầu tư của Quỹ tương đối đa dạng, trong đó có Quỹ tập trung đầu tư cho doanh nghiệp qui mô lớn, có quỹ đầu tư cho doanh nghiệp qui mô nhỏ. Có quỹ chỉ tập trung đầu tư cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có quỹ đầu tư cả cho doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, trong danh mục đầu tư thực tế, các Quỹ đầu tư mạo hiểm này hầu hết chỉ tập trung vào các ngành sản xuất hàng hoá có khả năng cạnh tranh trên thị trường, không phải những ngành công nghệ cao. Các quỹ đầu tư này không xác định ngành đầu tư trọng tâm là công nghệ cao.
Bảng 8
Một số thông tin về 4 quỹ ĐTMH hoạt động tại Việt nam
Beta Vietnam Fund | Vietnam Enterprise Investment Ltd. | Vietnam Frontier Fund | Vietnam Fund | |
Quy mô quỹ (triệu USD) | 80 | 27,5 | 50 | 51 |
Số dự án đầu tư vào công ty Việt nam | 0 | 6 | 0 | 6 |
Số dự án đầu tư vào doanh nghiệp có vốn | 17 | 4 | 9 | 5 |
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - 6
- Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - 7
- Một Số Kết Luận Rút Ra Từ Hoạt Động Đầu Tư Mạo Hiểm Tại Các Nước Châu Á
- Những Thuận Lợi Và Khó Khăn Trong Việc Hình Thành Và Phát Triển Đtmh Ở Việt Nam Trong Thời Gian Vừa Qua
- Lĩnh Vực Mà Các Quỹ Đtmh Hướng Đến Trong Giai Đoạn Đầu Là Các Lĩnh Vực Công Nghệ Cao
- Các Biện Pháp Khuyến Khích Về Tài Chính Dành Cho Các Nhà Đtmh
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Quy mô đầu tư/1 dự án (triệu USD) | 1-5 | 0,5-2 | 1-5 | > 1 |
Tổng số nhân viên | 3 | 6 | 2 | 6 |
Trong đó, số nhân viên người nước ngoài | 3 | 3 (nhân viên chính) | 2 | 6 |
Năm thành lập | 1993 | 1994 | 1994 | 1991 |
Nguồn: MPDF, 1998
Tuy nhiên, đến năm 2000, trong 6 Quỹ hoạt động trước đó thì 5 Quỹ đã rút vốn khỏi thị trường Việt nam, chỉ riêng Vietnam Enterprise Investment Ltd. vẫn còn hoạt động.
Cùng với xu hướng đầu tư và rút vốn khỏi thị trường Việt Nam nói trên của các Quỹ ĐTMH, lượng vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam cũng tăng dần từ khoảng 10 triệu USD năm 1991 đến đỉnh cao là hơn 200 triệu vào những năm 1995-1999 và giảm dần trong những năm gần đây (xem Biểu đồ 8).
Biểu đồ 8
Vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam 1991-2002
350
300
250
200
150
100
303
318
276
292
247
258
157
131
114
130
50
0
10
22
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Nguồn: AVCJ 2002
Theo nghiên cứu của MPDF, nhiều nguyên nhân dẫn đến sự rút vốn của các Quỹ như sau:
- Quản lý quỹ và chiến lược đầu tư của các Quỹ chưa đảm bảo tính hiệu quả. Hầu hết các chuyên gia quản lý quỹ là người nước ngoài nên không có nhiều kinh nghiệm cũng như mối quan hệ rộng ở Việt nam. Chiến lược đầu tư của các quỹ không tập trung, bị dàn trải ra nhiều ngành do đó bị thụ động và không có chuyên gia giỏi. Các quỹ cũng bị hạn chế trong việc đầu tư vào các doanh nghiệp của người Việt nam,
- Việt nam chưa có thị trường chứng khoán do đó các Quỹ gặp khó khăn trong việc rút vốn đầu tư trong khi đó các quỹ này đa số rút vốn thông qua trị trường chứng khoán,
- Môi trường kinh doanh trong giai đoạn này chưa khuyến khích khu vực tư nhân, chủ yếu ưu tiên, tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp nhà nước. Khu vực tư nhân kém phát triển làm hạn chế cơ hội đầu tư của các quỹ.
- Ngoài ra, sau cuộc khủng hoảng châu á, các nước bị ảnh hưởng của khủng hoảng trong khu vực đang có chính sách cơ cấu lại do đó tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Như vậy, có thể nói 1990-2002 là giai đoạn bắt đầu hình thành loại hình ĐTMH ở Việt nam. Tuy nhiên, những khoản đầu tư này mặc dù đầu tư vào những doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán nhưng đó không phải là những doanh nghiệp dựa vào công nghệ . Hay nói cách khác, đây không phải là những khoản đầu tư cho những dự án phát triển những ý tưởng công nghệ mới. Vì vậy, nếu hiểu theo định nghiã hẹp về đầu tư mạo hiểm như đã trình bày ở đầu bài viết thì những khoản đầu tư này chưa phải là ĐTMH, hay nói cách khác là chúng ít có tác động đến phát triển công nghệ ở Việt nam.
Bảng 9
Lĩnh vực đầu tư của một số Quỹ ĐTMH hoạt động ở Việt Nam (1990-2002)
Các lĩnh vực đầu tư | |
Viet Nam Fund | Sản xuất rau xanh và hoa, may mặc, thương mại, du lịch, ngân hàng, phát triển nhà, văn phóngản xuất gạch ceramic |
Sản xuất thép, dịch vụ ngân hàng, v.v. | |
Viet Nam Frontier Fund | Sản xuất nước giải khát, khai thác vàng, chăn nuôi và chế biến bò sữa, sản xuất xi măng, xây dựng, ngân hàng, sản xuất thép, ngân hàng, sản xuất cà phê |
Beta Vietnam Fund | Giải trí dưới nước, sản xuất hàng dệt kim, ngân hàng |
Lazard Vietnam Fund | Khách sạn, nhà ở văn phòng, khu du lịch, sản xuất gỗ, xây dựng, nhựa |
Nguồn: Tổng hợp từ nghiên cứu của GS.TS.Lê Văn Tư, 2003
2. Giai đoạn từ năm 2002 đến nay
Sau một thời gian trầm lắng, từ năm 2002, ĐTMH lại bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu mới, tích cực hơn, có thể gọi là làn sóng ĐTMH thứ hai của các quỹ nước ngoài vào Việt nam (Hải Lý, 2003). Một số quỹ đã bắt đầu những hoạt động đầu tư ở Việt Nam như Mekong Enterprise Fund và Vietnam Opportunity Fund. Nhiều quỹ khác cũng tỏ rõ dự định đầu tư vào Việt nam như Phan-xi-phăng (của các nhà đầu tư châu Âu và Đông á), FMO (Thuỵ Sỹ), DEG (Đức) và một số quỹ của Hàn quốc cũng đang chuẩn bị nghiên cứu thị trường để đầu tư vào Việt nam. Các quỹ này có hình thức hoạt động giống như các quỹ ĐTMH trước đây, vẫn huy động nguồn vốn từ nước ngoài và niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài. Một số đầu tư hoàn toàn vào Việt nam, một số đầu tư chỉ một phần còn lại đầu tư vào các nước khác. Những quỹ này một số mang tính chất là quỹ ĐTMH còn một số đầu tư cả vào các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán.