Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý - qua thực tiễn ở thành phố Hải Phòng

Hoạt động của Trung tâm Trợ giúp pháp lý – qua thưc tiên ở Thành phố Hải Phòng

Đào Thị Hồng Nhung

Khoa Luật

Luận văn ThS Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số 60 38 01 01

Người hướng dẫn: GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế Năm bảo vệ: 2014

Keywords. Trợ giúp pháp lý; Luật hành chính; Pháp luật Việt Nam; Trung tâm Trơ giúp pháp lý.

Content

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chế độ trợ giúp pháp lý (TGPL) là một loại trợ giúp tư pháp được đại đa số các nước trên thế giới áp dụng (khoảng 150 nước). Nó là kết quả tất yếu của sự phát triển trong xã hội, là công cụ để nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối với công dân của mình. Nhà nước ban hành pháp luật, buộc người dân phải tuân theo, do vậy nhà nước cũng phải có cơ chế bảo đảm để pháp luật bảo vệ được quyền lợi của nhân dân. Nếu không làm được điều này, tất yếu sự hoài nghi của công chúng đối với pháp luật sẽ nảy sinh và đó sẽ là nguy cơ lớn đối với khả năng thực thi pháp luật.

Có thể bạn quan tâm!

Hệ thống pháp luật ngày càng nhiều và mức độ phức tạp ngày càng tăng, ngay cả người được đào tạo về pháp luật đôi khi cũng không hiểu hết các quy định của pháp luật và khi có vướng mắc pháp luật hay phải đứng trước toà án cũng không chắc chắn có thể bảo vệ thành công quyền lợi của mình. Do đó, một công dân không có kiến thức pháp luật và không có kỹ năng thì dù không phạm tội cũng không thể chứng minh được sự vô tội của mình.

Nhiều cuộc tranh luận trên thế giới đã đi đến sự khẳng định rằng, TGPL là cần thiết. Nó cần thiết đối với việc củng cố luật pháp, với việc xây dựng nhà nước pháp quyền và có tầm quan trọng như một bộ phận không thể tách rời của việc thực thi công lý và cũng cần thiết như một bộ phận không thể thiếu trong quá trình xét xử.

Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý - qua thực tiễn ở thành phố Hải Phòng

Từ những năm 50 của thế kỷ 20, đã có ý kiến từ các luật gia tư sản cho rằng việc tiếp cận luật pháp của người giàu cũng như của người nghèo là cần thiết đối với việc duy trì trật tự pháp luật, do đó, cần phải tư vấn và đại diện pháp lý phù hợp cho những người mà cuộc sống, tài sản, tự do, danh dự bị đe doạ nhưng không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý …

Sẽ là rất vô nghĩa nếu quyền được bào chữa chỉ áp dụng đối với người có khả năng trả chi phí dịch vụ. Vì vậy, việc khẳng định vị trí của TGPL là một yêu cầu mang tính thủ tục cần thiết để bổ sung ý nghĩa cho nhà nước pháp quyền. Nếu thừa nhận trật tự xã hội trong nhà nước pháp quyền là một mục tiêu cần hướng tới thì việc thừa nhận TGPL rất quan trọng, có thể coi như một phương tiện để đạt được mục tiêu ấy.

Tại Việt Nam TGPL ra đời năm 1997 trên cơ sở Quyết định số 734/TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, hoạt động TGPL miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò trong đời sống pháp luật của xã hội, trở thành bộ phận quan trong trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo và được cụ thể hóa trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 và chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010.

Luật TGPL được Quốc hội thông qua tháng 6/2006 và có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2007 là một bước tiến của công tác lập pháp khi đúc rút kinh nghiệm của việc thực hiện một Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chính sách TGPL, một lĩnh vực hoạt động pháp luật tương đối mới mẻ được thể chế ổn định trong văn bản có hiệu lực cao. Luật này còn là tuyên ngôn nhân quyền của nhà nước Việt Nam về các vấn đề công lý khi khẳng định quyền được TGPL của người nghèo và các nhóm dân cư thiệt thòi, dễ bị tổn thương được Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm để họ có quyền bình đẳng tiếp cận dịch vụ pháp lý có chất lượng như các công dân khác. Tiếp đó, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã ban hành 26 văn bản quy phạm pháp luật đơn ngành và liên tịch góp phần đưa Luật TGPL đi vào cuộc sống nhằm “giảm nghèo về pháp luật” cho một bộ phận nhân dân.

Việc giám sát thực hiện Luật này có vị trí rất quan trọng vì thông qua số vụ việc và lĩnh vực pháp luật người dân thường có vướng mắc, cơ quan lập pháp có cơ sở để rà soát lại các quy định pháp luật hiện hành ở các lĩnh vực này, cơ quan quản lý chuyên ngành cũng có căn cứ để đánh giá lại đội ngũ công chức, viên chức đang có trách nhiệm giải quyết việc của dân.

Việc giám sát và theo dõi việc thực hiện Luật TGPL có thể được xem xét từ nhiều góc độ như: theo thẩm quyền của các chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực hiện Luật; việc hình thành các tổ chức thực hiện TGPL và các tổ chức này có tuân thủ luật hay không; việc các đối tượng thuộc diện có được bảo đảm nhận dịch vụ dễ dàng và đúng đắn; nhu cầu TGPL của người dân tăng hay giảm, tập trung nhiều ở lĩnh vực pháp luật nào (ví dụ, nếu số lượng lớn vụ việc tập trung ở lĩnh vực đất đai thì phải xem lại quy định và chính sách, xem lại đội ngũ cán bộ có thẩm quyền và trực tiếp giải quyết vấn đề đất đai …); đội ngũ người thực hiện TGPL có được hình thành và đáp ứng yêu cầu của người dân hay chưa; chất lượng TGPL so với chất lượng dịch vụ pháp lý ngoài thị trường tự do như thế nào…

Sau 15 hình thành và phát triển, hệ thống TGPL Việt Nam đã và đang không ngừng lớn mạnh về quy mô, ổ định về tổ chức với đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên TGPL là luật sư và các cộng tác viên khác không ngừng phát triển về số lượng cũng như về năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng TGPL. Công tác TGPL đạt được những kết quả tích cực, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng và những người có hoàn cảnh đặc biệt khác. Theo số liệu thống kê, sau 05 năm triển khai thực hiện Luật TGPL của các tổ chức thực hiện TGPL, các tổ chức thực hiện TGPL trong cả nước đã TGPL cho 497.617 đối tượng thông qua 489.082 vụ việc (tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng …) [15].

Trợ giúp pháp lý là chính sách của Đảng và nhà nước thể hiện sự quan tâm tới nhân dân, “tôn chỉ” của hoạt động TGPL là đảm bảo công bằng xã hội bằng cách “bênh vực” những người yếu thế, khó khăn, tạo điều kiện cho họ có thể tiếp cận dịch vụ pháp lý tốt.

Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan TGPL trên thực tế tại Việt Nam vẫn còn là một vấn đề cần phải xem xét, đánh giá từ nhiều khía cạnh để hoàn thiện hơn nữa, để đáp ứng được yêu cầu thực tế - thực hiện được sứ mệnh của mình và đáp ứng khát vọng của người dân nghèo, yếu thế về một nền pháp luật công bằng. Xuất phát từ đòi hỏi khách quan này, tác giả đã chọn đề tài “Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý - qua thực tiễn ở thành phố Hải Phòng” là cần thiết cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trợ giúp pháp lý là một nhiệm vụ mới của ngành tư pháp thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách trên phương diện pháp 

luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam. Xóa đói, giảm nghèo cả về mặt vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho người chịu thiệt thòi trong xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trước pháp luật. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến TGPL miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đó là:

- Luận án tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” của tiến sĩ Tạ Thị Minh Lý;

- Luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL ở Việt Nam” của tác giả Vũ Hồng Tuyến;

- Luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Đỗ Xuân Lân;

- Luận văn thạc sĩ “Phát triển TGPL ở cơ sở” của tác giả Đặng Thị Loan;

- Luận văn thạc sĩ “Bảo đảm quyền được TGPL” của tác giả Phan Thị Thu Hà;

- Luận văn thạc sĩ “Chất lượng TGPL của Trung tâm TGPL tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Đức trực;

- Luận văn thạc sĩ “Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo ở Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Hoàng Hà;

- Luận văn thạc sĩ “Hoạt động TGPL trong các chương trình giảm nghèo” của tác giả Lê Thị Thúy; …

- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay”; Bài viết “Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh TGPL”; Bài viết “Chất lượng vụ việc TGPL” TS. Tạ Minh Lý, Tạp chí Dân chủ Pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề tháng 10/2009, tr.2-8; Bài viết “Đánh giá chất lượng vụ việc TGPL là hình thức giám sát hiệu quả nhất về thi hành pháp luật TGPL”/TS. Tạ Minh Lý/Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – Văn phòng Quốc hội; Bài viết “Chất lượng vụ việc TGPL và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vụ việc TGPL”/Đỗ Xuân Lân/ Tạp chí dân chủ pháp luật, Bộ Tư pháp, số 1/2008, tr.22-29; Bài viết “Chất lượng vụ việc TGPL” của tác giả Nguyễn Hải Anh, Tạp chí Dân chủ Pháp luật số 5/2008; Bài viết”Tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc TGPL”, chuyên đề của Cục TGPL, Bộ Tư pháp, 2008; Bài viết “Tiêu chí đánh giá chất lượng 

cung ứng dịch vụ công tại các cơ quan hành chính nhà nước”/ PGS.TS Nguyễn Hữu Hải, ThS. Lê Văn Hòa, Học viện Hành chính, Tạp chí tổ chức nhà nước số 3/2010; Bài viết “Xã hội hóa và chất lượng cung ứng dịch vụ công”, tác giả Đinh Mai Lan, Văn phòng UBND tỉnh Cao Bằng, nguồn: http://www.nclp.org.vn/chinh sach/xa-hoi-hoa-va-chat-luong-cung-ung-dich- vu-cong; Bài viết “Chất lượng dịch vụ, sự thỏa mãn và long trung thành của khách hang siêu thị tại Thành phố Hồ Chí Minh” tác giả Nguyễn Thị Mai Trang, khoa kinh tế, ĐHQG-HCM, Tạp chí Phát triển KH-CN, Tập 9, số 10-2006; The importance of Quality in Legal Aid/Helaine M.Barnett, February, 2009 – Wyoming State Bar, …

Trong phạm vi luận văn, tác giả không có tham vọng tổng kết hay đánh giá tổng thể TGPL với tư cách là dịch vụ công do Nhà nước cung cấp. Với đề tài “Hoạt động của Trung tâm TGPL – qua thực tiễn ở Hải Phòng ”, tác giả sẽ đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan đến hoạt động TGPL trên cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn tại Hải Phòng, góp phần tìm ra giải pháp khoa học đưa hoạt động TGPL trong thời gian tới gần với người dân nhất, đảm bảo tốt nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh đặc biệt khác, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích của Luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về mô hình hoạt động Trung tâm trợ giúp pháp lý, bao gồm khái niệm, mục tiêu, đặc điểm, thực trạng hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước trong phạm vi Thành phố Hải Phòng trong thời gian qua; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các Trung tâm TGPL, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu sô và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.

Thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:

- Làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý và cơ sở thực tiễn về hoạt động của Trung tâm TGPL;

- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động TGPL Nhà nước thành phố Hải Phòng , tìm ra được những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập đó cũng như tình hình quản lý, đánh giá hoạt động của các Trung tâm TGPL ở Hải Phòng trong thời gian qua.

- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm TGPL Nhà nước ở Hải Phòng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý về hoạt động TGPL ở Việt Nam.

- Thực tiễn hoạt động của Trung tâm TGPL ở Hải Phòng.

- Giải pháp đảm bảo, nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm TGPL trong thời gian tới tại Hải Phòng.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật; quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích – tổng hợp, logic- lịch sử, so sánh, đối chiếu. Đồng thời tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu thực tiễn; các chuyên đề nghiên cứu trong và ngoài nước; kết quả khảo sát để hoàn thành Luận văn.

6. Ý nghĩa của Luận văn

- Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu trên cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn về hoạt động của Trung tâm TGPL Nhà nước Hải Phòng.

- Luận văn góp phần khẳng định sự quan tâm sâu sắc và triệt để của Đảng và Nhà nước về mặt công lý cho tầng lớp người nghèo, các đối tượng yếu thế trong xã hội, người dân tộc thiểu số và những người có công với đất nước. Đồng thời, có sự đánh giá sát tình hình hoạt động của Trung tâm TGPL, nêu và phân tích yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn đối với vấn đề hoạt động của Trung tâm TGPL trong thời gian tới.

- Luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần bảo đảm và nâng cao chất lượng TGPL trong thời gian tới.

7. Bố cục Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì Luận văn được kết cấu thành 03 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về trợ giúp pháp lý

Chương 2: Thực trạng của hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hải Phòng

Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo chất lượng hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý 

Reference

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến 2020, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hà Nội.

3. Bộ Tư Pháp (2008), Quyết định số 03/2008/QD-BTP ngày 28/02/2008 ban hành điều lệ mẫu về tổ chức và điều lệ của Câu lạc bộ trợ lý pháp lý, Hà Nội.

4. Bộ Tư pháp (2008), Quyết định số 09/2008/QĐ-BTP ngày 08/12/2008 ban hà nh Quy tắc phẩm chất, đao đức của ngườ i thưc hiên TGPL, Hà Nội.

5. Bộ Tư Pháp (2008), Quyết định số 10/2008/QĐ-BTP ngày 10/12/2008 về việc phê duyệt đề án “Bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015, Hà Nội.

6. Bộ Tư Pháp (2010), Quyết định số 2497/QĐ-BTP ngày 01/10/2010 ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ/2010-TTG ngày 18/8/2010 của Thủ Tướng Chính Phủ, Hà Nội.

7. Bộ Tư Pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện Kiếm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (2007), Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA- BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng, Hà Nội.

8. Chính phủ (1997), Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách, Hà Nội.

9. Chính phủ (2007), Nghị định số 07/2007/ND-CP ngày 12/01/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật trợ giúp pháp lý, Hà Nội.

10. Chính phủ (2008), Quyết định số 792?QĐ-TTg ngày 23/6/2008 về việc phê duyệt Đề án: Quy hoạch mạng lưới Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015, Hà Nội.

11. Chính Phủ (2011), Quyết Định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến 

năm 2030, Hà Nội.

12. Cục Trợ giúp pháp lý – Bộ Tư pháp (2008), 10 năm hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, hướng phát triển, In tại Công ty Thiết kế và Thương mại Thắng lợi, Hà Nội.

13. Cục TGPL (2011), Báo cáo kết quả 03 năm (2009-2011) triển khai thực hiện Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, Hà Nội.

14. Cục TGPL (2011), Báo cáo sơ kết 05 năm (2006-2011) triển khai thi hành luật TGPL, Hà Nội.

15. Cục TGPL (2013), Kinh nghiệm Trợ giúp pháp lý ở AILEN và áp dụng tại Việt Nam,

http://www.TGPL.gov.vn

16. Cục TGPL (2013), Trợ giúp pháp lý ở ISRAEL, http://www.TGPL.gov.vn

17. Cục TGPL (2013), Trợ giúp pháp lý ở Phần Lan, http://www.TGPL.gov.vn

18. Cục TGPL (2013), Chế định luật sư nhà nước ở một số nước, http://www.TGPL.gov.vn

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Phan Thị Thu Hà (2010), Bảo đảm quyền được TGPL, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật.

23. Vũ Thị Hoàng Hà (2010), Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo ở Việt Nam,

Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

24. Nguyễn Hữu Hải, ThS. Lê Văn Hoà (2010), “Tiêu chí đánh giá chất lượng cung ứng dịch vụ công tại các cơ quan hành chính nhà nước”, Tạp chí tổ chức nhà nước, (3).

25. Lê Khả Kế (1997), Từ điển Anh - Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Liên Hiệp Quốc (1948), Tuyên ngôn quyền con người, ngày mùng 10/12/1948.

27. Liên hợp quốc (1982), Công ước quốc về các quyền dân sự và chính trị.

28. Nguyễn Lân (2000), Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

29. Đỗ Xuân Lân (2006), Hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội.

30. Trần Huy Liệu (2005), “Nhìn lại 7 năm thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách” Tạp chí Dân chủ pháp luật - Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp, (Số chuyên đề).

31. Đặng Thị Loan (2009), Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội.

32. Tạ Thị Minh Lý (2007), Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

33. Tạ Thị Minh Lý (2009), “Chất lượng vụ việc TGPL”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật,

(Chuyên đề tháng 10), tr. 2 – 8, Bộ Tư Pháp.

34. Định Xuân Lý (2009), Đảng lãnh đạo phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội thời kỳ đổi mới – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H.

36. Nguyễn Thành Minh (1998), Từ điển pháp luật Anh – Việt, Nxb Thế giới, Hà Nội

37. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2008), Các văn bản pháp luật về TGPL tập 1, Hà Nội.

38. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2008), Các văn bản pháp luật về TGPL tập 2, Hà Nội.

39. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.

40. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

41. Quốc hội (2001), Pháp lệnh Luật sư, Hà Nội.

42. Quốc hội (2005), Pháp lệnh người có công với cách mạng, Hà Nội.

43. Quốc hội (2006), Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội.

44. Quốc hội (2006) Luật sư sửa đổi, bổ sung 2012, Hà Nội.

45. Sở Tư pháp (2011-2014), Báo cáo tư pháp năm 2011- 2014 thành phố Hải Phòng.

46. Tổng Bí thư Đỗ Mười (1995), Bài phát biểu tại phiên họp Ban Bí thư Trung ương Đảng,

(ngày 18/5/1995).

47. Thủ tướng Chính phủ (2000), Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 01/3/2000 về tăng cường công tác trợ giúp pháp lý, hướng hoạt động trợ giúp pháp lý về cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân dễ tiếp cận hoạt động trợ giúp pháp lý, Hà Nội.

48. Thủ tướng Chính phủ (2002), Công văn số 2685/VPCP-QHQ: V/v phê duyệt Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo ngày 21/5/2002 Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo đến 2010.

49. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015.

50. Trung tâm TGPL Nhà nước Hải Phòng (2007-2011), Báo cáo 5 năm thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý, Hải Phòng.

51. Lê Thị Thuý (2012), Hoạt động TGPL trong các chương trình giảm nghèo, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội.

52. Nguyễn Thị Mai Trang (2006), “Chất lượng dịch vụ, sự thoả mãn và lòng trung thành của khách hàng siêu thị tại TPHCM”, Tạp chí Phát triển KH&CN, Tập 9, (10).

53. Ủy ban Dân tộc (2007), Thông tư số 06/2007/TT-UBDT ngày 20/9/2007 hướng dẫn thực hiện mức hỗ trợ các dịch vụ, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, trợ giúp để nâng cao nhận thức pháp luật theo Quyết định số 112/2207/QĐ-TTg ngày 20/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

54. Uỷ ban nhân dân (2013), Quyết điṇ h số 04/QĐ – UBND về viêc Ban hành Kế hoạch tổng

thể triển khai thực hiện “Chiến lược phát triển TGPL ở Thành phố Hải Phòng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”.

55. Văn phòng Trung ương Đảng gửi Ban cán sự Đảng Chính phủ (1995), Công văn số 485/CV-VPTW ngày 31/5/1995, thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư, Hà Nội.

56. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2000), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay”, Hà Nội.

57. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2003), Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh trợ giúp pháp lý, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

58. Nguyễn Như Ý (1999), Đại Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh

59. Albert KLIJn (2000), Dutch legal services quality incentives: The allegedly “perserse” effects of the 1994 Legal Aid Act, 33 U. Brit. Colum. L. Rev. 243 1999-2000.

60. Carlson, J.R (1976), “Measuring The quality of Legal services: An idea whose time has not come”, Law & Society Review, Vol.11 No.2, pp.287-317.

61. John Flood Avis Whyte (2004), “Report on costs of legal aid in other countries”, Westminster University, 12/2004.

62. Helaine M.Barnet (2009), The Impportance of Quality in Legal Aid, February, 2009 – Wyoming State Bar.

63. http://www.justice,govt.nz/publications/global-publications/t/transforming-the-legal- aid-system/transforming-the-legal-aid-system-1/components-of-an-effective-legal-aid- system#compinents-of-an-effective.

Ngày đăng: 31/03/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí