Do có năng lực tài chính thấp nên hầu hết các DNVVN thường sử dụng những công nghệ và thiết bị lạc hậu. Việc đầu tư nâng cấp các thiết bị máy móc đã lỗi thời cũng cần có khả năng tài chính tốt, cho phép đầu tư lâu dài trong khi đó ở Việt Nam nguồn vốn đầu tư vào các công nghệ là nguồn vốn mà các DNVVN khó có khả năng tiếp cận được.
Theo Tạp chí Cộng sản số ra ngày 22 tháng 2 năm 2013 thì hiện nay, máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có 10% hiện đại, 38% trung bình và 52% là lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng công nghệ cao mới chỉ có 2% (trong khi đó ở Thái Lan tỷ lệ đó là 31%, Malaisia là 51% và Singapore là 73%). Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp, chỉ khoảng 0,2% – 0,3% trong tổng doanh thu. Thực trạng này đang đặt ra những thách thức lớn đối với năng lực cạnh tranh của khu vực DNVVN, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
Các nhà quản lý DNVVN thường chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu hiểu biết đầy đủ về quản trị doanh nghiệp. Kết quả cuộc điều tra của Cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thấy rằng tại Việt Nam, có tới 55,63% số chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống. Cụ thể, số người là tiến sỹ chỉ chiếm 0,66%; thạc sỹ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn.
Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp ngay cả những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp mà vẫn chủ yếu kinh doanh dựa trên kinh nghiệm, kinh doanh theo phi vụ. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc lập chiến lược phát triển, định hướng kinh doanh và quản lý của các doanh nghiệp. Ngoài ra, các DNVVN còn có nguồn lao động chất lượng được đánh giá là thấp và ít. Nguyên nhân là do các DNVVN không có khả năng thu hút các nhân lực có chất lượng cao do điều kiện làm việc và chế độ làm việc ở các DNVVN không đáp ứng được mức lương thưởng như tại các doanh nghiệp lớn.
DNVVN có cơ cấu tổ chức đơn giản, bộ máy tổ chức gọn nhẹ, số lượng nhân viên ít. Phần lớn các DNVVN ở Việt Nam là các công ty gia đình, hoạt động theo mô hình tự quản, các cấp quản lý từ giám đốc tới kế toán trưởng và trưởng phòng các ban (nếu có) là một người nào đó có mối quan hệ trong gia đình, chưa qua trường lớp đào tạo cơ bản về kĩ năng quản lý và cả kinh doanh, chỉ điều hành doanh nghiệp theo kinh nghiệm, lao động làm việc trong các DNVVN chủ yếu là các lao động thủ công, tay nghề thấp. Do đó, thường các DNVVN hay xảy ra những sự kiện đáng tiếc như vi phạm quy định nhà nước và các thông lệ quốc tế một cách không cố ý, hoạt động kinh doanh không hiệu quả dẫn đến phá sản. Lợi thế mang lại của đặc điểm này đó là DNVVN linh hoạt, dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường.
Với những đặc điểm như trên, có thể thấy được vai trò của các DNVVN tại Việt Nam là rất lớn. Không chỉ đóng vai trò ổn định và phát triển nền kinh tế, doanh nghiệp còn tạo công ăn việc làm cho người lao động, giúp cho người dân tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo, giúp ổn định và tiến bộ xã hội. Với số lượng đông đảo và cơ chế linh hoạt, mềm dẻo, các DNVVN tạo ra các sản phẩm phong phú, đa dạng về chủng loại, có khả năng đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. DNVVN có quy mô nhỏ nên phân bổ trên hầu hết các địa phương, giúp thu hút đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương.
Ngoài ra, DNNVV sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, sẽ hình thành những tụ điểm, cụm công nghiệp để tác động chuyên môn hóa, đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá đất nước, góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có những mặt hạn chế, nhất là trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Chính vì vậy, việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là nhiệm vụ hết sức cần thiết mà Đảng và Nhà nước đang đặt ra nhằm đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, bền vững của nền kinh tế.
1.2. Các vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại
Theo Quyết định số 1627/2007/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức cho vay đối với khách hàng thì: “Cho vay là một hình thức cấp cho vay, theo đó tổ chức cho vay giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất đinh theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong chi nhánh Hoàn Kiếm - 1
- Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong chi nhánh Hoàn Kiếm - 3
Xem toàn bộ 32 trang tài liệu này.
Thời hạn nhất định ở đây là thời hạn cho vay”. Hay theo PGS.TS Mai Văn Bạn (trong giáo trình Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, năm 2011) thì khái niệm cho vay được hiểu là: “Cho vay của NHTM là việc chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ NHTM (người sở hữu) sang khách hàng (người sử dụng) sau một thời gian nhất định quay trở lại NHTM với lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu”. Từ những định nghĩa về cho vay nêu trên, có thể khái quát về cho vay đối với DNVVN như sau: “Cho vay DNVVN của NHTM là một hình thức cấp tín dụng mà theo đó Ngân hàng giao vốn cho các DNVVN để sử dụng vào mục đích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận giữa ngân hàng và DNVVN với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi theo đúng thời hạn đã cam kết”.
1.2.2. Nguyên tắc cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hoạt động cho vay DNVVN của NHTM phải dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định của NHNN với các NHTM. Nguyên tắc thứ nhất: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng cho vay.
Để đảm bảo khả năng thu hồi nguồn vốn của ngân hàng, DNVVN phải cam kết sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng vay vốn, sử dụng vốn một cách có hiệu quả và không trái với các quy định của pháp luật. Phương án/dự án kinh doanh có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ cho ngân hàng, các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay.
Hơn nữa, mục đích sử dụng vốn vay là căn cứ ban đầu để ngân hàng thẩm định về tính khả thi, hiệu quả kế hoạch SXKD của khách hàng, là cơ sở để đưa ra quyết định cho vay của ngân hàng. Chỉ khi khách hàng thực hiện đúng cam kết ban đầu, sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận thì mới đảm bảo cho hoạt động SXKD hiệu quả, đảm bảo cho khả năng trả nợ ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt là khả năng thanh toán và có thể gặp phải rủi ro nếu như DNVVN hoạt động không có hiệu quả hay sử dụng vốn sai mục đích. Nguyên tắc thứ hai: Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng vay.
Hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay, nên hầu hết nguồn vốn cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng, ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng các nguồn vốn đó và phải có nghĩa vụ hoàn trả khi khách hàng có nhu cầu rút tiền. Nếu các khoản vay không được hoàn trả đúng hạn, tức là ngân hàng không trả lại được các khoản tiền gửi của khách hàng, thì hoạt động của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng và uy tín của ngân hàng sẽ giảm sút. Chính vì vậy, DNVVN phải cam kết hoàn trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định. Nguyên tắc này đề ra nhằm đảm bảo cho các NHTM tồn tại và phát triển bền vững.
1.2.3. Các đặc điểm cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cũng như các loại hình cho vay khác, cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ mang những đặc điểm chung của hoạt động cho vay, bên cạnh đó loại hình này cũng có một số đặc điểm nổi bật như sau:
DNVVN có vốn chủ sở hữu thấp, năng lực quản lý yếu kém, cho nên, cho vay DNVVN luôn tiềm ẩn rủi ro cao trong mỗi món vay. Chính vì vậy các ngân hàng phải tiến hành chặt chẽ hơn trong quy trình cho vay và tiến hành giám sát khoản vay. Hơn nữa, các DNVVN còn rất hạn chế trong việc đưa ra những phương án kinh doanh có tính khả thi cao, các báo cáo tài chính thì không minh bạch, không đủ sức thuyết phục các ngân hàng, đây chính là những nguyên nhân khiến cho ngân hàng ít tin tưởng giao vốn cho DNVVN.
Quy mô hợp đồng cho vay DNVVN thường nhỏ nhưng ngân hàng vẫn phải thực hiện các thủ tục cho vay bao gồm tất cả các công đoạn như tìm hiểu thông tin về khách hàng, thẩm định trước khi cho vay… làm tăng chi phí vay. Doanh nghiệp không những phải trả lãi suất cho vay theo qui định mà còn phải trả cả chi phí của tất cả những thủ tục cho vay trên, dẫn tới hệ quả là lãi suất vay thực tế của DNVVN thậm chí còn cao hơn lãi suất cho vay của các Doanh nghiệp lớn. Trong khi các DNVVN là đối tượng cần được hỗ trợ lãi suất do còn nhiều khó khăn về vốn.
Số lượng các DNVVN trong nền kinh tế chiếm phần đông, nhu cầu vay vốn lại lớn nên số lượng các món vay nhiều. Mặt khác, do đặc thù kinh doanh, các DNVVN có quan hệ trao đổi, mua bán với bạn hàng liên tục, mỗi món hàng có giá trị không nhiều nhưng do có nhu cầu vay vốn nên doanh nghiệp có thể tạo nhiều tiểu khoản riêng biệt tại ngân hàng, gây nhiều khó khăn trong việc quản lý các tài khoản cho vay của cán bộ tín dụng. Vì thế mà cho vay đối với DNVVN đòi hỏi cán bộ tín dụng phải là người có kinh nghiệm, có cách sắp xếp , quản lý các món vay một cách hợp lý, hạn chế sai sót gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cho vay.
Các DNVVN thường vay vốn để đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn lưu động, chi trả cho các hoạt động ngắn hạn như mua nguyên vật liệu sản xuất, trả lương công nhân viên, vay theo hạn mức tín dụng nhằm đáp ứng các giao dịch mụa bán với nhà cung ứng…. nên thời gian của các khoản cho vay DNVVN thường ngắn.
Các thông tin về DNVVN thường rất khó xác định do giấy tờ, sổ sách kế toán không đầy đủ, chi tiết qua đó khoản vay thường mang nhiều rủi ro qua đó ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo khi vay vốn. Tài sản đảm bảo là điều kiện quan trọng để ngân hàng ra quyết định cho doanh nghiệp vay vốn cũng như quyết định quy mô khoản vốn được vay. Tuy nhiên hầu hết các DNVVN ở Việt Nam không có, không đủ tài sản đảm bảo cho việc vay vốn, hoặc nếu có thì không đáp ứng đầy đủ quy định về tài sản đảm bảo cho vay theo yêu cầu của ngân hàng. Chính vì vậy, ngân hàng cần tiến hành nâng cao hiệu quả thẩm định tài sản đảm bảo, tránh những rủi ro gặp phải trong quá trình cho vay.
1.2.4. Phương thức cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.4.1. Theo kỳ hạn cho vay
Căn cứ theo kỳ hạn, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ được chia thành cho vay ngắn hạn và cho vay trung – dài hạn.
Cho vay ngắn hạn: Khoản vay ngắn hạn là các khoản vay có thời gian cho vay đến 12 tháng. Mục đích của loại hình cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc hình thành, mua sắm tài sản lưu động, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của DNVVN trong hoạt động kinh doanh. Các loại cho vay ngắn hạn doanh nghiệp vừa và nhỏ như: Cho vay vốn lưu động, cho vay vốn xây dựng công trình, cho vay theo hạn mức thấu chi…. Cho vay trung hạn và dài hạn: Cho vay trung – dài hạn là loại hình cho vay trong đó các bên thỏa thuận thời hạn sử dụng vốn vay là từ 1 – 5 năm và trên 5 năm. Các loại cho vay trung và dài hạn đối với DNVVN bao gồm: Cho vay mua sắm thiết bị, máy móc; Cho vay theo dự án đầu tư, cho vay theo hạn mức tín dụng…
1.2.4.2. Theo tính chất đảm bảo
Theo tính chất đảm bảo, cho vay DNVVN có hai loại chính: Cho vay có đảm bảo bằng tài sản và cho vay không có đảm bảo bằng tài sản.
Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với cho vay DNVVN, các tài sản doanh nghiệp có thể cầm cố hoặc thế chấp là: Tài sản cố định thuộc sở hữu của doanh nghiệp, máy móc thiết bị, hàng hóa luân chuyển, các khoản phải thu, quyền đòi nợ, chứng khoán hoặc đảm bảo, ủy thác vốn của bên thứ ba.
Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản: Là việc ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc không có bảo lãnh của người thứ ba về tài sản. Trong trường hợp cho vay DNVVN, đối với những doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh và quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng, ngân hàng có thể cho vay dựa vào uy tín của bản thân doanh nghiệp mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. Mỗi ngân hàng sẽ có các quy định riêng về cho vay không có tài sản đảm bảo như điều kiện cho vay, lãi suất cho vay, mức cho vay tối đa, quy trình cho vay…..
Trường hợp các DNVVN có đủ điều kiện để được vay không có bảo đảm bằng tài sản, nhưng uy tín với ngân hàng chưa thực sự đảm bảo, ngân hàng có thể thoả thuận với doanh nghiệp vay vốn về việc có một bên thứ ba, bên thứ ba này phải có uy tín và khả năng tài chính, cam kết bằng văn bản rằng sẽ trả nợ thay cho doanh nghiệp vay trong trường hợp doanh nghiệp vay không trả được nợ cho ngân hàng.
Ngoài những hình thức cho vay trên, tùy thuộc vào tình hình thực tế và nhu cầu sử dụng vốn của khách hàng mà ngân hàng có thể áp dụng nhiều hình thức cho vay khác như: cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay ủy thác, cho vay hợp vốn,….
1.2.5. Vai trò của hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp này cũng sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cũng như để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất quan trọng, nó chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối…
1.2.5.1. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hoạt động cho vay DNVVN của ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các DNVVN được liên tục. Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải cải tiến kỹ thuật thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị để tồn tại đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế không một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh đựơc liên tục.
Hoạt động cho vay DNVVN của ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNVVN. Khi sử dụng nguồn vốn vay của ngân hàng, các doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và phải tôn trọng các điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó đòi hỏi các DNVVN khi muốn tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng phải có phương án sản xuất khả thi, không chỉ thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh chóng vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi. Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.
Hoạt động cho vay DNVVN của ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DNVVN. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các DNVVN do hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì vốn hạn hẹp và nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao, từ đó giá thành sản phẩm cũng tăng lên, sản phẩm khó được thị trường chấp nhận. Để đạt được hiệu quả kinh doanh thì các DNVVN phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lý nhất là nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
Ngoài ra, hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại góp phần giúp cho các DNVVN tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
1.2.5.2. Đối với ngân hàng
Hoạt động cho vay trong đó có cho vay đối với giúp Ngân hàng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bởi hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay nên khi nguồn vốn ngân hàng huy động được đạt mức cao nhưng lại không thể cho vay được, gây nên tình trạng thừa, ứ đọng vốn, các ngân hàng làm ăn không hiệu quả.
Cho vay các DNNVV chiếm một vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng, bởi cho vay là nguồn tạo ra khoản lợi nhuận lớn cho các ngân hàng, mặc dù cũng mang lại nhiều rủi ro cho ngân hàng. Một ngân hàng có hoạt động cho vay tốt sẽ mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, giúp ngân hàng có khoản thu đủ để chi trả một phần cho các chi phí như chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động của ngân hàng, trả lương cho nhân viên. Bên cạnh đó, hoạt động cho vay DNNVV sẽ giúp các ngân hàng có thể tăng cường quan hệ giữa ngân hàng và các DNNVV đồng thời mở rộng thị phần, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để cho ngân hàng tăng nguồn vốn huy động và phát triển trong tương lai.
1.3. Đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại
1.3.1. Sự cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại
Đẩy mạnh hoạt động cho vay DNVVN giúp cho nguồn vốn huy động của ngân hàng bỏ ra được sử dụng hiệu quả, ngân hàng thu được lợi nhuận từ mỗi khoản vay của khách hàng. Ngân hàng có nhiều điều kiện mở rộng hoạt động cho vay cũng như các dịch vụ ngân hàng khác, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Chính vì vậy đẩy mạnh hoạt động cho vay là cần thiết và là xu thế tất yếu của các NHTM trong giai đoạn hiện nay.
Hoạt động cho vay của NHTM là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các DNVVN hiện nay. Trong quá trình mở rộng SXKD, các nhu cầu về vốn thường xuyên phát sinh và để phục vụ tốt cho hoạt động SXKD, nâng cao hiệu quả hoạt động thì doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn đi vay bởi quy mô vốn chủ sở hữu của các DNVVN hiện nay thường nhỏ bé. Nhờ có vốn vay từ ngân hàng mà các DNVVN có thêm nguồn vốn để đổi mới trang thiết bị, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Vốn vay ngân hàng cũng kích thích các DNVVN kinh doanh hiệu quả hơn.