Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay - 9

của mình, người vợ không có khả năng mang thai và sinh con tiếp dù đã áp dụng các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng nên thêm trường hợp các cặp vợ chồng đã áp dụng các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản từ 3 lần trở lên mà không có con thì cũng có thể được áp dụng biện pháp mang thai hộ.

Thứ ba, về quy định người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.

Để hài hòa được lợi ích chính đáng của các cặp vợ chồng vô sinh và lợi ích của Nhà nước, của xã hội trong công tác này cần phải xem xét về lâu dài nên cho phép việc mang thai hộ được thực hiện bởi người thân thích không cùng hàng hoặc cả những người không thân thích nhưng phải đảm bảo thực hiện đúng các quy định pháp luật về điều kiện xác lập cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên. Điểm cần lưu ý nữa là giải thích về khái niệm “người thân thích” theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và “người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ” theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP không có sự thống nhất10. NGHỊ ĐỊNH SỐ 10/2015/NĐ-CP bao gồm: “Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ. Trong khi đó Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Người thân thích là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người cùng có dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời”. Theo quy định này, người thân thích không bao gồm chị dâu, em dâu của bên vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ. Theo tác giả, cần có sự thống nhất giữa Nghị định và luật để phù hợp với quy định và dễ dàng hơn cho những người thực hiện.

Thứ tư, mở rộng đối tượng tham gia vào quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Pháp luật cần xem xét mở rộng và trao thêm cơ hội được mang thai hộ cho trường hợp phụ nữ đơn thân muốn có con nhưng bị vô sinh và những người đồng tính chuyển giới (Gọi chung là LGBT) để đảm bảo quyền con người, quyền mưu cầu hạnh phúc theo đúng tinh thần của Hiến pháp.



10 Xem khoản 7 điều 2 NGHỊ ĐỊNH SỐ 10/2015/NĐ-CP

Do vậy, xét ở khía cạnh xã hội, những vấn đề nhân văn và nhân đạo, những người độc thân phải được quan tâm hơn hết. Cho phép đối tượng này được phép có con bằng phương pháp mang thai hộ sẽ góp phần giảm bớt những gánh nặng cho xã hội, đặc biệt khi họ ốm đau, bệnh tật hay khi về già có người chăm sóc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.

Chúng ta cho phép những người độc thân, những người thuộc thế giới LGBT được quyền có con bằng phương pháp mang thai hộ cũng là thừa nhận và phù hợp với pháp luật của các nước trên thế giới, cũng chính là chúng ta đang tôn trọng, bảo vệ và thực thi các quyền cơ bản của con người trong đời sống thực tiễn. Trong một thế giới xu thế hòa nhập trên nhiều lĩnh vực thì pháp luật cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó

Cách làm này cũng thể hiện tính nhân đạo theo đúng bản chất của pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Bởi lẽ dù pháp luật có hạn chế quyền của họ thì vì khao khát muốn có con huyết thống, họ vẫn lén lút thực hiện. Điều này sẽ gây ra nhiều vấn đề pháp lý và đứa trẻ sẽ không được đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích của mình, cũng sẽ để lại vết đen tâm lý cho chúng khi lớn lên.Việc mang thai hộ chui gây ra rất nhiều rủi ro cho cả 2 phía, người nhờ mang thai hộ và người được nhờ. Và người được hưởng lợi duy nhất đó là những người môi giới, những người tổ chức dắt mối mang thai hộ. Để hạn chế những rủi ro và những hậu quả phức tạp khó lường này, theo tác giả, quy định đối tượng được nhờ mang thai hộ phải mở rộng hơn nữa.

Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay - 9

Thứ năm, điều kiện “trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng”

Tuy nhiên, trên thực tế không phải người chồng nào cũng chấp nhận, vượt qua rào cản định kiến xã hội để cho vợ của mình mang thai đứa con không phải là con chung của vợ chồng dẫn đến việc không đồng ý. Cũng có những trường hợp do vợ chồng ở cách xa nhau về mặt địa lý, người vợ cố tình giấu và giả chữ ký của chồng để thực hiện việc mang thai hộ. Hoặc có trường hợp hai vợ chồng đang trong giai đoạn rạn nứt tình cảm, ly thân thì việc nhận được sự đồng ý của người chồng là một việc khó khan.Có nhiều trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng nhưng chồng của họ lại mắc các chứng bệnh về tâm thần, hạn chế trong khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, các chứng bệnh khác như bại liệt... Đối với những trường hợp này nên có quy định mở rộng về việc nếu thuộc các trường hợp nêu trêu, người phụ nữ có thể tự mình quyết định việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hộ người khác. Đồng thời, được phép bỏ trống mục chữ

ký của người chồng trong hợp đồng mang thai hộ trong trường hợp người chồng không có khả năng ký vào văn bản do hạn chế về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi hoặc các trường hợp khác tương tự.

Thứ sáu, về độ tuổi của người mang thai hộ

Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về độ tuổi để mang thai hộ mà chỉ quy định “ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ”. Theo nghiên cứu, người phụ nữ ở độ tuổi từ trên 18 đến dưới 35 tuổi có sức khỏe sinh sản tốt nhất vì cơ thể đã phát triển toàn diện, chất lượng trứng cũng ở thời kỳ tốt nhất. Ở độ tuổi này người phụ nữ đã phát triển đầy đủ về cả tâm - sinh lý cho việc mang thai và làm mẹ. Từ độ tuổi 24-35, các điều kiện về nghề nghiệp, kinh tế gia đình sẽ thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe khi mang thai cũng như chăm sóc em bé khi ra đời để trẻ được phát triển toàn diện. Từ những phân tích dưới góc độ y học, thiết nghĩ khi ban hành các văn bản hướng dẫn cho Luật Hôn nhân và gia đình về vấn đề mang thai hộ, Bộ Y tế nên ghi nhận độ tuổi thích hợp cho người phụ nữ mang thai hộ để đảm bảo chất lượng của việc mang thai hộ cũng như tránh được các nguy cơ rủi ro cho người phụ nữ mang thai và bào thai mang thai hộ để tránh những trường hợp không mong muốn xảy ra trong quá trình mang thai.

Thứ bảy, về quyền quyết định số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai

Pháp luật hiện tại cho phép người mang thai hộ có quyền quyết định số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai. Điều này gây tranh cãi về bên có quyền định đoạt số phận thai nhi. Từ quy định pháp luật và thực tiễn về vấn đề này, cần phải có văn bản hướng dẫn thật chặt chẽ để tránh các trường hợp người được nhờ mang thai hộ không đồng ý chấm dứt thai kỳ theo yêu cầu của bên nhờ mang thai hộ để rồi cuối cùng sinh ra những đứa trẻ bị dị tật, bệnh hiểm nghèo. Điều này không những chỉ là nỗi đau của những trẻ mắc bệnh mà còn là nỗi đau, là gánh nặng cho gia đình và toàn xã hội.Ở một giả định khác trong trường hợp này là việc do có quyền quyết định đến số phận bào thai nên không thể loại trừ trường hợp người phụ nữ mang thai hộ vì một lý do nào đó dùng đứa trẻ uy hiếp cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ đáp ứng những yêu cầu của mình. Mà yêu cầu đó có thể liên quan đến lợi ích kinh tế hoặc một lợi ích khác trái với ý muốn của người nhờ mang thai hộ. Nhưng vì muốn đảm bảo cho sự an toàn của con mình, họ buộc phải đáp ứng. Vì vậy, thiết nghĩ, văn bản hướng dẫn cần phải

xác định rõ hai trường hợp, nếu việc mang thai ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của người được nhờ mang thai hộ thì việc quyết định tiếp tục hay chấm dứt thai kỳ là do người được nhờ mang thai hộ quyết định. Đối với trường hợp thai nhi phát triển không bình thường, ví dụ như trong thời gian mang thai hộ, trẻ bị khuyết tật bẩm sinh và được phát hiện bởi các kỹ thuật y tế thì cần có sự thỏa thuận giữa bên nhờ mang thai hộ và bên được nhờ mang thai hộ để đi đến quyết định tiếp tục hay chấm dứt thai kỳ. Nếu họ không thỏa thuận được thì nhờ Tòa án giải quyết và Tòa án sẽ ra quyết định trên cơ sở tham vấn ý kiến của tổ chức y tế. Được như vậy, sẽ phần nào hạn chế được tình trạng như đã nêu trên.

Thứ 8 tám, về các thủ tục quy định để hoàn thiện hồ sơ mang thai hộ

Với những trường hợp có mong muốn nhờ mang thai hộ thì cần đáp ứng rất nhiều giấy tờ để đảm bảo hoàn thiện hồ sơ theo đúng như quy định của pháp luật. Điều này nhiều khi gây khó khăn cho các cặp vợ chồng đi xin các giấy tờ hành chính.Điều đó có thể là trở ngại khiến họ e dè.Vướng thủ tục thì thời gian sẽ bị trì hoãn lại lâu, rồi lại đợi thời gian được phê duyệt. Vô hình sẽ xảy ra nhiều trường hợp tìm đến dịch vụ mang thai hộ “chui”. Vì thế, Chính phủ cần xem xét giảm tải một số giấy tờ không cần thiết và thủ tục rườm rà để tạo điều kiện hơn cho các cặp vợ chồng vô sinh mong muốn có con chính đáng.

Thứ chin, Nhà nước hỗ trợ chi phí mang thai hộ

Hiện nay, chưa tính đến chi phí để chu cấp cho người mang thai hộ theo đúng như thỏa thuận và yêu cầu của pháp luật thì riêng chi phí thực hiện cho các hoạt động chữa trị vô sinh và thụ kinh ống nghiệm trước đó là rất tốn kém. Mỗi lần thực hiện như vậy bệnh nhận sẽ phải bỏ ra từ 5 triệu đến 20 triệu đồng cho một lần chữa trị với tỷ lệ 20-30% thành công. Có nghĩa nhiều khả năng sẽ phải tiếp tục làm thêm nhiều lần để nâng tỷ lệ có thai. Tuy nhiên, Bảo hiểm y tế chưa có mục chi trả cho những trường hợp này. Vì thế, thiết nghĩ Chính phủ nên xem xét bổ sung các mục được bảo hiểm y tế chi trả, trong đó các phương pháp hỗ trợ sinh sản để giảm bớt nỗi lo kinh tế cho các bệnh nhân không có điều kiện.

Thứ mười, về chi phí tự nguyện hỗ trợ mang thai hộ

Theo pháp luật, việc quy định người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng để hạn chế thương mại hóa. Tuy nhiên vấn đề thương mại không chỉ tồn tại đối với những người không cận huyết thống. Việc thuyết phục một người trong gia đình mang thai hộ không phải việc đơn giản vì kéo theo nhiều vấn đề. Nếu người nhờ mang thai hộ có hoàn cảnh khó khăn và cũng muốn giúp đỡ cặp vợ

chồng vô sinh hiếm muộn thì thiết nghĩ pháp luật nên cho phép bổ sung điều khoản về Chi phí hỗ trợ nhờ mang thai hộ. Chi phí này không bao gồm cả các chi phí khám chữa bệnh hay chi phí theo luật quy định hiện nay. Thực tế dù có nhờ được người mang thai hộ đủ điều kiện đi chăng nữa thì chắc chắn 2 bên vẫn có thỏa thuận ngầm về tiền bạc. Điều khoản này nếu đi vào hợp đồng thỏa thuận giữa các bên thì sẽ tường minh và rõ ràng hơn, đảm bảo không có tranh chấp ngầm xảy ra. Những thỏa thuận rõ ràng, sòng phẳng thường lại là những thỏa thuận dễ điều chỉnh nhất, dưới góc độ pháp lý. Vì thế nhà nước có thể tối đa hóa sự kiểm soát của mình.

Trong trường hợp này, nếu lo lắng về vấn đề thươn mại hóa mà vi phạm giá trị đạo đức truyền thống thì pháp luật có thể quy định thêm về mức chi phí hỗ trợ mang thai hộ này trong khoảng hạn chế từ 100-200 triệu đồng nếu bên mang thai hộ yêu cầu.

3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật Dân sự về mang thai hộ Thỏa thuận về mang thai hộ có những đặc điểm giống với giao kết hợp đồng dân sự được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay chưa có quy định rõ ràng về vấn đề này. Theo tác giả, cần thiết phải sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật về Hợp đồng mang thai hộ để dựa vào đây, các bên tham gia có hành lang pháp lý an toàn và cơ sở pháp luật cần thiết để thiết lập hợp đồng chặt chẽ, đồng thời cũng là để đảm bảo sự kiểm soát tối đa của pháp luật về việc thực hiện hợp đồng trong vấn đề nhạy cảm này.

3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật Hình sự về mang thai hộ Về chủ thể tội phạm, Điều 187 BLHS quy định đối với cá nhân có hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục thương mại là những cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét trong mối tương quan giữa tên tội danh “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại” với chủ thể tội phạm theo tinh thần điều luật thì đối tượng chủ thể của điều luật này không chỉ hướng tới cá nhân trực tiếp mang thai hộ mà còn cả những người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Tuy nhiên, cả tên điều luật và chủ thể phạm tội quy định tại khoản 1 điều này đang tạo ra các cách hiểu khác nhau theo chiều hướng thu hẹp đối tượng phạm tội chỉ đối với “người tổ chức”, còn người mang thai hộ đơn thuần (không có yếu tố tổ chức) thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của tội danh này.

Để có cách hiểu và áp dụng thống nhất, cần khắc phục hạn chế này bằng cách sửa lại tên điều luật theo hướng mở rộng tối đa chủ thể phạm tội như “Tội mang thai hộ vì mục đích thương mại”, đồng thời quy định dấu hiệu “tổ chức” trong tên tội danh thành tình tiết định khung tăng nặng trong cùng điều luật.

Tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại khoản 2, Điều 187 quy định “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm: a) Đối với 2 người trở lên; Phạm tội 2 lần trở lên; Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức; Tái phạm nguy hiểm”.

Nếu giữ nguyên tên tội danh thì tại điểm a của khoản này cần bổ sung thêm cụm từ “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đối với 2 người trở lên” bởi quy định như hiện tại chưa rõ ý trong vấn đề xác định đối tượng là người trực tiếp mang thai hộ hay người có nhu cầu mang thai hộ.

Đồng thời, để xử lý các hành vi của một số đối tượng đặc biệt trong tội danh này cần bổ sung các tình tiết tăng nặng mới tại khoản 2 như “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”, “cưỡng ép người mang thai hộ”, “gây hậu quả nghiêm trọng”.

3.2. Một số giải pháp khác để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ

Thứ nhất, quy định rõ hơn trách nhiệm của Tòa án, Ủy ban Nhân Dân các cấp, các cơ sở Y tế có thẩm quyền trong việc xác nhận những văn bản, giấy tờ liên quan để thỏa mãn điều kiện về mang thai hộ

Đối với các cơ quan chuyên môn về lĩnh vực y tế cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ từng khâu, gắn với trách nhiệm của từng cá nhân.

Chế tài dân sự hiện nay trên thực tế chưa đủ sức để kiểm soát mang thai hộ, vì vậy cần có các chế tài liên quan về hành chính và hình sự để đảm bảo việc kiểm soát mang thai hộ chặt chẽ và hiệu quả; cung cấp cho các cơ quan hành pháp, tư pháp có cơ sở pháp lý đầy đủ để thực hiện giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra. Nâng cao yêu cầu nghiệp vụ để hỗ trợ người dân trong quá trình thực hiện các quy định về mang thai hộ một cách thuận tiện và dễ dàng.

Thứ hai, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật và thực hiện pháp luật về mang thai hộ

Xét về mặt bằng chung thì hiện tại trình độ dân trí của Việt Nam chưa có sự đồng đều. Nhiều người dân còn mang nặng khá nhiều các định kiến còn tồn tại từ xa xưa, nhất là ở vùng nông thôn. Vì thế họ cổ hủ với những biện pháp hỗ trợ sinh sản tiên tiến; xấu hổ với tình trạng vô sinh của mình; có cái nhìn dị nghị đến

những trường hợp vô sinh, mẹ đơn thân hay cộng đồng người đồng tính, chuyển giới,… gây khó khăn và tác động đến ý chí của nhà làm luật. Do vậy, trong thời gian đầu triển khai quy định này, Nhà nước cần phải tăng cường việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật; phải phân tích rõ để người dân hiểu được bản chất của mang thai hộ, tính khoa học của biện pháp, về cha mẹ của đứa trẻ được sinh ra và tính chất nhân đạo của mang thai hộ.

Các hoạt động tuyên truyền, tư vấn này cũng sẽ giúp cho người dân cởi mở hơn trong nhận thức và tâm lý, từ đó pháp luật cũng sẽ được đảm bảo và phát triển hơn.

Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế về để chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật về mang thai hộ

Trên thế giới, mỗi nước có một quan điểm pháp luật khác nhau, tuy nhiên, đều căn cứ trên tình hình thực tiễn xã hội và quan niệm đạo đức. Mục đích của pháp luật đều là hướng đến bảo vệ và phát triển con người. Vì thế, để đảm bảo hoàn thiện được pháp luật mang thai hộ ở mức tốt nhất, cung cấp cho người dân môi trường pháp luật phù hợp nhất, cần tăng cường hợp tác quốc tế về áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, hợp tác trao đổi công nghệ y tế,… để có những cái nhìn đa chiều hơn với các vấn đề phát sinh trong xã hội; chia sẻ những kinh nghiệm về xây dựng pháp luật và quá trình kiểm soát thực thi pháp luật.

KẾT LUẬN

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một bước tiến bộ tích cực về tư duy của các nhà làm luật Việt Nam căn cứ trên tình hình thực tiễn và nhu cầu của xã hội, đảm bảo quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Quy định đã đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các cặp vợ chồng vô sinh và giúp hoàn thiện xã hội theo hướng nhân đạo. Bởi suy cho cùng, pháp luật không phải lúc nào cũng phục vụ cho số đông mà còn là công cụ bảo vệ cho số ít người yếu thế trong cộng đồng. Pháp luật cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng giúp ổn định được các quan hệ trong HNGĐ, giảm tải hạn chế, tiêu cực từ hiện tượng “chửa thuê, đẻ thuê”, ngăn chặn việc thương mại hóa, coi con người là hàng hóa.

Nội dung các quy định về mang thai hộ trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã tương đối cụ thể, chặt chẽ, cơ bản bảo đảm được tính khả thi trong quá trình thi hành và áp dụng luật vào thực tế. Tuy nhiên, trong thời gian vận hành áp dụng, pháp luật về mang thai hộ đã bộc lộ những điểm còn hạn chế, vướng mắc như việc thu hẹp phạm vi chủ thể trong quan hệ mang thai hộ, thủ tục còn rườm rà, chưa thật sự đáp ứng rộng rãi với người dân; còn thiếu tính đồng bộ giữa các quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và các văn bản pháp luật liên quan, vẫn còn nhiều lỗ hổng để các hành vi thương mại hóa mang thai hộ xảy ra. Vì thế, các nhà làm luật cần nghiên cứu để chỉnh sửa và hoàn thiện pháp luật cụ thể, chặt chẽ hơn nữa, hạn chế tối đa các trường hợp phi nhân đạo trong mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/02/2023