Các Quan Điểm Cơ Bản Về Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Pháp Luật Trong Giải Quyết Án Hn&gđ Của Tand Ở Tỉnh Thái Nguyên

rằng ngay cả khi đứng trên quan điểm thuần túy pháp lý, hoàn cảnh của con cái và tài sản của chúng cũng không thể bị lệ thuộc vào sự xử lý tùy tiện của bố mẹ, vào việc bố mẹ muốn sao làm vậy” [5].

Như vậy, để quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững đòi hỏi vợ chồng không những phải thực hiện các nghĩa vụ của họ đối với nhau, đối với con cái, quan tâm vun vén, chăm sóc gia đình. Thông thường khi vợ chồng yêu thương nhau thì họ tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ của họ đối với nhau, đối với gia đình. Nhưng khi tình yêu giữa vợ chồng không còn thì thường dẫn đến họ không thực hiện nghĩa vụ đối với nhau, thậm chí cả các nghĩa vụ của họ đối với con cái. Như vậy, nếu tình yêu giữa vợ chồng không còn dẫn đến trách nhiệm giữa họ đối với nhau và với các thành viên khác trong gia đình không còn thì rò ràng “tình trạng” đã “trầm trọng” và không thể kéo dài cuộc sống chung.

Thực tế cuộc sống vợ chồng rất đa dạng và phong phú. Do đó, biểu hiện của “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không hể kéo dài ” cũng rất đa dạng. Qua thực tiễn xét xử cho thấy, việc đánh giá “tình trạng trầm trọng” gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Căn cứ ly hôn được pháp luật quy định rất chung chung và mang tính khái quát cao. Trong khi đó mâu thuẫn vợ chồng và những nguyên nhân dẫn đến vợ chồng xin ly hôn lại cụ thể.

Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2000/NQ –HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:

- Vợ chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận của người đó, bỏ mặc người vợ hoặc chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, hòa giải nhiều lần.

- Vợ chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau như thường xuyên

đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần.

- Vợ chồng không chung thủy với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình (Mục 8 điểm a1).

Cơ sở để nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài là căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a1 Mục 8 và “đã được nhắc nhở, hòa giải nhiều lần mà vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau” (Mục 8 điểm 2 NQ 02/2000/ HĐTP). Tuy nhiên do quy định của pháp luật nhiều khi còn cứng nhắc mà thực tế những vụ án xảy ra lại muôn hình muôn vẻ nên quá trình ADPL còn gặp nhiều khó khăn và việc nhận thức của mỗi tòa án là không đồng nhất.

Thứ hai, sự phối kết hợp giữa Tòa án và các cơ quan liên quan trong quá trình giải quyết án HN&GĐ chưa thực sự chặt chẽ và đạt kết quả tốt.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Trong hoạt động của mình, Tòa án phải thường xuyên có mối quan hệ với các cơ quan chuyên môn khác khác như Sở Tài nguyên môi trường, cơ quan tài chính, cơ quan giám định, Cục đo đạc bản đồ… nhưng trong thực tế ta thấy việc thu thập số liệu ở các cơ quan này còn gặp nhiều khó khăn do việc lưu trữ các tài liệu chưa đầy đủ, chưa hệ thống, công tác quản lý còn lỏng lẻo, đối với cấp xã, phường công tác địa chính còn sơ sài, tài liệu hồ sơ đất còn thiếu nhiều. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của Tòa án nói chung và quá trình giải quyết án HN&GĐ của Tòa án nói riêng.

Thứ ba, cơ sở vật chất của Tòa án phục vụ cho công tác ADPL trong giải quyết án HN&GĐ còn nhiều thiếu thốn.

Áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết án hôn nhân và gia đình qua thực tiễn tỉnh Thái Nguyên - 9

Những vụ án có liên quan đến các tỉnh lân cận hầu hết phải ủy thác điều tra, các chế độ như tiền lương, công tác phí còn hạn hẹp nên ảnh hưởng đến cuộc sống của cán bộ ngành Tòa án. Sự phân bố Thẩm phán không đồng đều dẫn đến tỷ lệ giải quyết án của Thẩm phán ở các Tòa án thành phố, thị xã thường cao hơn so với Thẩm phán Tòa án cấp huyện ở vùng sâu, vùng xa, do vậy, lượng công việc nhiều là nguyên nhân khó tránh khỏi sai sót trong quá trình giải quyết án HN&GĐ.

Thứ tư, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân chưa được chú trọng.

Trong những năm gần đây, trình độ dân trí ở nước ta nói chung và ở Thái Nguyên nói riêng tuy đã được nâng lên, nhưng vẫn ở mức độ thấp, nhận thức pháp luật của người dân còn rất hạn chế. Đặc biệt, Thái Nguyên là tỉnh trung du miền núi phía Bắc, với địa hình đồi núi là chủ yếu, hệ thống giao thông chưa được hoàn thiện, hơn nữa, sinh sống trên địa bàn tỉnh chủ yếu là đồng bảo dân tộc nên với số lượng lớn QPPL, được ban hành trong nhiều giai đoạn khác nhau và liên tục bị sửa đổi, các văn bản hướng dẫn ADPL còn chậm, còn thiếu không đáp ứng được nhu cầu ADPL trong thực tiễn dẫn đến hiệu quả ADPL trong giải quyết án HN&GĐ của Tòa án một số huyện còn chưa được tốt.

- Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, do trình độ chuyên môn của Thẩm phán, HTND, thư ký trong quá trình ADPL để giải quyết án HN&GĐ chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.

Biên chế cán bộ của các Tòa án còn ít, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều hạn chế do vậy, hiệu quả hoạt động ADPL không cao. Ở TAND cấp huyện, Thẩm phán phải giải quyết và xét xử hầu hết tất cả các loại án, nên khả

năng chuyên sâu và cập nhật thông tin chưa đáp ứng nhu cầu công việc và đa số cán bộ Tòa án là cán bộ của các cơ quan đoàn thể, bộ đội xuất ngũ chuyển về sau đó cử đi học các lớp nghiệp vụ ngắn ngày, vừa học vừa làm, việc đào tạo không có hệ thống đã làm cho kiến thức pháp lý của cán bộ Thẩm phán còn nhiều hạn chế, việc ADPL nói chung và án HN&GĐ nói riêng còn theo phương pháp tư duy cảm tính, không mang tính lý luận, khoa học. Một số Thẩm phán thì chủ quan, làm việc đơn thuần theo kinh nghiệm, một số khác chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu thận trọng, thậm chí còn cẩu thả, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong quá trình ADPL.

Thứ hai, những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động của ngành TAND ở tỉnh Thái Nguyên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động ADPL trong giải quyết án HN&GĐ.

Trong những năm gần đây, vì những lý do khác nhau, một số ít cán bộ, công chức ngành TAND ở tỉnh Thái Nguyên đã không cưỡng nổi sự cám dỗ và tham gia một số đường dây “chạy án”, đưa hối lộ, môi giới hối lộ… Con số những cán bộ này là không nhiều nhưng nó ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngành Tòa án, gây ra những tiếng xấu, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào hoạt động của TAND, vào chế độ xã hội chủ nghĩa và làm cho trật tự xã hội bị đảo lộn, công bằng xã hội không được đảm bảo.

Thứ ba, việc hoạch định chính sách phát triển ngành TAND, công tác quản lý, sử dụng cán bộ chưa tốt, chưa kịp thời kiểm tra thường xuyên, uốn nắn những sai sót trong nghiệp vụ.

Trong hoạt động của mình, đôi khi ngành Tòa án còn chưa thường xuyên tập huấn nghiệp vụ và tạo điều kiện nắm bắt đầy đủ, kịp thời các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo công tác nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán. Theo tinh thần Nghị quyết 08/NQTW ngày 02/1/2002 cần đẩy mạnh hơn công tác cải cách tư pháp, chỉ đạo đổi mới phương pháp, cách thức hoạt động giải quyết án

HN&GĐ, nâng cao nghiệp vụ cho Hội thẩm, Thẩm phán, cán bộ; bồi dưỡng giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị cho các bộ Tòa án, sắp xếp công việc phù hợp năng lực cho từng cán bộ, tạo ra những chuyển biến sâu rộng về tư tưởng, nhận thức cho cán bộ, Thẩm phán các Tòa án.


Kết luận Chương 2

Thái Nguyên là một tỉnh có địa hình rừng, núi phức tạp, dân cư không đồng nhất, có nhiều đồng bào các dân tộc ít người sinh sống, kinh tế, xã hội phát triển không cao… các điều kiện đó đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động ADPL trong giải quyết án HN&GĐ của TAND tỉnh Thái Nguyên. Hoạt động ADPL trong giải quyết án HN&GĐ của TAND tỉnh Thái Nguyên những năm qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần ổn định tình hình HN&GĐ của địa phương, song cũng còn nhiều hạn chế, bất cập cần được khắc phục…

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở TỈNH THÁI NGUYÊN


3.1. Các quan điểm cơ bản về nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên

Trong những năm qua, nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế..., đời sống người dân ngày càng được cải thiện, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Hơn nữa, Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới đất nước và thực hiện tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Trong hoàn cảnh đó, yêu cầu các hoạt động ADPL cần phải thay đổi nhận thức để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của thời kỳ đổi mới.

Thời gian vừa qua, Đảng và nhà nước ta cũng đưa ra những đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra nhiệm vụ “Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người… Đổi mới hệ thống tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách hoạt động tư pháp…”[8, tr.35]. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã đề ra nhiều chủ trương lớn, nhiệm vụ, giải pháp về đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có ngành TAND, đặc biệt là thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng xét xử, chất lượng ADPL[7, tr.4]. Do vậy, các chủ thể ADPL trong đó có hoạt động của TAND cần phải quán triệt và nhận thức rò những định hướng của Đảng về hoạt động cải cách tư pháp nói chung và hoạt động ADPL trong giải quyết án HN&GĐ nói riêng, cụ thể là phải đáp ứng được những quan điểm sau:

Thứ nhất, hoạt động ADPL của TAND trong giải quyết án HN&GĐ phải đáp ứng được yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa pháp quyền và dân chủ được thể hiện khá rò nét trong khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, theo đó, đây là mô hình nhà nước được tổ chức và vận hành nhằm bảo vệ và phát huy chế độ dân chủ của xã hội. Nội dung cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là xây dựng nhà nước dân chủ của dân, do dân và vì dân, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ và có sự phân công, phân cấp rò ràng giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, yêu cầu của nhà nước pháp quyền đòi hỏi trách nhiệm của nhà nước trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm cho công dân được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Một xã hội muốn phát triển phải tạo điều kiện đảm bảo cho tự do của mỗi cá nhân và dân chủ chính là điều kiện trực tiếp mang lại tự do cho con người. Mục tiêu chính của tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam là con người phải được phát triển toàn diện và thực sự làm chủ xã hội. Tuy nhiên yêu cầu của Nhà nước pháp quyền cũng đòi hỏi mọi cá nhân, tổ chức phải tôn trọng và triệt để thi hành pháp luật, người dân phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với các lợi ích của mình. Như vậy, trong quá trình giải quyết án HN&GĐ đòi hỏi các bên đương sự phải tuân thủ đúng nghĩa vụ của mình, tòa án phải tuân thủ đúng những nguyên tắc, trình tự thủ tục tiến hành giải quyết án HN&GĐ. Qua đó, mọi người đều có cơ hội bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách chính đáng, hợp pháp cũng như tăng cường dân chủ, tạo điều kiện cho mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức đều có thể kiểm tra, giám sát hoạt động của tòa án và của những người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến quá trình giải quyết án HN&GĐ.

Tại cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Do vậy, hoạt động ADPL của TAND trong giải quyết án HN&GĐ hiện nay phải trên cơ sở triển khai cụ thể các quan điểm chỉ đạo mang tính xuyên trong các nghị quyết của Bộ chính trị đối với hoạt động xét xử của tòa án là: Bảo đảm nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử công khai, mở rộng và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự…

Thứ hai, áp dụng pháp luật của TAND trong giải quyết án HN&GĐ phải phù hợp với quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam

Ngày 02/6/2005, Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 49 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, hiện đại, bảo vệ công lý”. Sau gần 10 năm thực hiện, nền tư pháp Việt Nam đã có những thay đổi rò rệt trên tất cả các mặt, đặc biệt là hệ thống TAND, cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong thời gian qua, hệ thống TAND nói chung và TAND ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trong đó có vi phạm pháp luật trong lĩnh vực HN&GĐ.

Trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, một vấn đề có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022