Tài Chính Doanh Nghiệp Và Phân Tích Tình Hình Tài Chính Doanh Nghiệp


CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN


2.1. Tài chính doanh nghiệp và phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp

2.1.1. Bản chất và vai trò của tài chính doanh nghiệp

Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thái giá trị hợp thành các quan hệ tài chính, phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, gắn liền với việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp [9, tr.9], [12, tr.6-7]. Bên trong quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị tạo thành các quan hệ tài chính của doanh nghiệp và bao hàm các quan hệ tài chính chủ yếu sau đây:

- Quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý Nhà nước: Nhà nước giữ vai trò quản lý nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, thông qua việc sử dụng công cụ quản lý chủ yếu là hệ thống pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật. Như vậy, doanh nghiệp có mối quan hệ với Nhà nước từ lúc được thành lập, trong quá trình hoạt động kinh doanh, cho đến lúc bị giải thể hay phá sản. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước chủ yếu thông qua việc hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước bằng các khoản thuế, phí, lệ phí; nếu đó là doanh nghiệp Nhà nước thì thể hiện ở việc Nhà nước đầu tư vốn ban đầu và vốn bổ sung [9], [12]. Các khoản nộp của doanh nghiệp là nguồn thu nhập của Nhà nước. Ngược lại, việc trợ vốn của Nhà nước tạo nên các quỹ tiền tệ ở doanh nghiệp.

- Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: Thị trường tài chính là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng các khoản vốn ngắn hạn hoặc dài hạn thông qua các công cụ tài chính. Đây là nơi huy động vốn cho nền kinh tế và doanh nghiệp. Mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính thể hiện ở việc doanh nghiệp huy động và gia tăng vốn cần thiết vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu; đồng thời có thể đầu tư


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 296 trang tài liệu này.

các khoản tài chính tạm thời nhàn rỗi để tăng thêm mức sinh lợi của vốn, cũng có thể thực hiện đầu tư dài hạn một cách gián tiếp [25].

- Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Doanh nghiệp có quan hệ tài chính với một số thị trường khác như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động. Doanh nghiệp quan hệ với các thị trường này nhằm mua bán nguyên vật liệu, hàng hóa, máy móc thiết bị, thuê lao động phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Mặt khác, thông qua các thị trường này, doanh nghiệp có thể xác định và dự báo được cung, cầu, tiềm năng, cơ hội cũng như những thách thức có thể gặp phải trong quá trình kinh doanh, từ đó giúp doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh đúng đắn, giảm thiểu khả năng phá sản [9].

Hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán Việt Nam - 5

- Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Quan hệ tài chính thuộc về nội bộ doanh nghiệp bao gồm chủ yếu các mối quan hệ như giữa doanh nghiệp với nhân viên, giữa doanh nghiệp với người sở hữu, giữa doanh nghiệp với người quản lý, giữa doanh nghiệp với các phòng ban chức năng, giữa doanh nghiệp với các đơn vị trực thuộc hay với công ty con [9]. Các mối quan hệ này xuất phát từ lợi ích thu nhập, chính sách phân phối lợi nhuận và chính sách tái đầu tư, chính sách huy động vốn, chính sách đầu tư vốn.

Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng với hoạt động của doanh nghiệp, được thể hiện ở một số mặt sau [17], [25]:

- Đảm bảo vốn cho doanh nghiệp:

Để tiến hành sản xuất kinh doanh, điều kiện tiên quyết là các doanh nghiệp phải có vốn tiền tệ. Vốn tiền tệ được sử dụng vào vô số các hoạt động như mua sắm, xây dựng nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu; thuê lao động; khen thưởng hay cải tiến kỹ thuật. Việc thừa vốn hay thiếu vốn tiền tệ đều là những dấu hiệu không tốt trong quản lý vốn tiền tệ tại doanh nghiệp, đặc biệt là khi doanh nghiệp bị thiếu vốn - điều này sẽ làm cho hoạt động của doanh nghiệp bị ngưng trệ. Do vậy, đảm bảo đủ vốn cho doanh nghiệp kinh doanh bình thường, liên tục là vai trò không thể thiếu của tài chính doanh nghiệp, bởi xuất phát từ một chân lý: dòng tiền là dòng máu của doanh nghiệp. Để thực hiện được vai trò này, doanh nghiệp phải có chính


sách huy động vốn phù hợp, cụ thể như: quyết định huy động vốn từ nguồn nào, với số lượng vốn bao nhiêu, mức chi phí sử dụng vốn của từng nguồn ...

- Nâng cao hiệu quả kinh doanh:

Sau khi đã huy động vốn, bước tiếp theo là doanh nghiệp phải biết cách sử dụng đồng vốn huy động sao cho có hiệu quả, tức là thực hiện chính sách đầu tư vốn, đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn phụ thuộc rất lớn vào việc lựa chọn dự án đầu tư. Một khi nguồn vốn được huy động kịp thời và đầy đủ sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội kinh doanh, đồng thời, huy động tối đa số vốn hiện có vào kinh doanh sẽ hạn chế được những thiệt hại do ứ đọng vốn, tăng vòng quay của vốn, từ đó gia tăng hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.

- Kiểm soát tình hình kinh doanh:

Thông qua dòng tiền vào, dòng tiền ra và cả dòng tiền thuần của từng hoạt động trong doanh nghiệp; nhà quản lý có thể nắm bắt được tình hình kinh doanh, phát hiện nhanh những bất ổn của từng hoạt động, từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn để hướng các hoạt động theo những mục tiêu và kế hoạch chung của toàn doanh nghiệp.

Trong nền kinh tế thị trường, những vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng hơn; bởi lẽ hoạt động tài chính doanh nghiệp ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động khác trong doanh nghiệp, quyết định về huy động vốn và đầu tư vốn ngày càng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh, những thông tin tài chính là căn cứ quan trọng để kiểm soát doanh nghiệp.

2.1.2. Mối quan hệ giữa tài chính và tình hình tài chính doanh nghiệp

Phần trên của luận án đã nêu rõ bản chất của tài chính doanh nghiệp. Qua đây có thể thấy rằng, tài chính doanh nghiệp tập trung chủ yếu giải quyết hài hòa ba chính sách: chính sách huy động vốn, chính sách đầu tư vốn và chính sách phân phối lợi nhuận.

Tình hình tài chính doanh nghiệp thể hiện tình trạng hay thực trạng tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm cụ thể, thể hiện sự tồn tại và những cố gắng của doanh nghiệp trên mọi mặt hoạt động, đó là kết quả tất yếu của mọi hoạt động mà


doanh nghiệp tiến hành trong một thời kỳ [6].

Tài chính doanh nghiệp và tình hình tài chính doanh nghiệp có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tài chính doanh nghiệp liên quan đến những hoạt động về thay đổi quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay; còn tình hình tài chính của doanh nghiệp lại phản ánh tình trạng tài chính của doanh nghiệp. Tình hình tài chính chịu ảnh hưởng của toàn bộ các hoạt động mà doanh nghiệp tiến hành, là bức tranh phản ánh kết quả của tất cả các hoạt động trong doanh nghiệp. Hoạt động tài chính tốt sẽ góp phần làm lành mạnh tình hình tài chính doanh nghiệp, ngược lại, tình hình tài chính doanh nghiệp khả quan sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động tài chính có hiệu quả cao [6].

Mối quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp và tình hình tài chính doanh nghiệp còn được thể hiện rõ trong nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Trong nội dung đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp; các mục đích chủ yếu là đánh giá tình hình huy động và chính sách huy động vốn, đánh giá xu hướng, nhịp điệu và tốc độ tăng trưởng vốn của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những nhận định sơ bộ về thực trạng và sức mạnh tài chính doanh nghiệp, mức độ độc lập tài chính. Một số nội dung chi tiết của đánh giá khái quát tình hình tài chính như: đánh giá khái quát tình hình huy động vốn, đánh giá khái quát mức độ độc lập tài chính, đánh giá khái quát khả năng thanh toán, đánh giá khái quát khả năng sinh lợi thì nội dung đánh giá khái quát tình hình huy động vốn thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp và tình hình tài chính doanh nghiệp; bởi lẽ, số vốn mà doanh nghiệp huy động được vừa phản ánh kết quả của hoạt động tài chính vừa phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, sự biến động về quy mô của tổng số vốn theo thời gian phản ánh rõ nét kết quả tạo lập, tìm kiếm, tổ chức và huy động vốn cho kinh doanh, sự thay đổi về kết cấu hay tỷ trọng của từng bộ phận vốn trong tổng số vốn phản ánh nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả huy động vốn và cả chính sách huy động vốn của doanh nghiệp. Phân tích nội dung này sẽ đánh giá được kết quả tạo lập và huy động vốn, đánh giá được tính hợp lý trong cơ cấu huy động, chính sách huy động và tổ chức nguồn vốn cũng như xu hướng biến động của


cơ cấu huy động. Như vậy, trong nội dung đánh giá khái quát tình hình tài chính đã thể hiện được chính sách huy động vốn, đây là một trong ba chính sách chủ yếu của tài chính doanh nghiệp. Một nội dung nữa là phân tích cấu trúc tài chính của doanh nghiệp. Nội dung phân tích cấu trúc tài chính chủ yếu là phân tích tình hình huy động, sử dụng vốn và mối quan hệ giữa tình hình huy động với tình hình sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Như vậy, với nội dung phân tích này đã thể hiện được chính sách huy động vốn và chính sách đầu tư vốn của tài chính doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có một số nội dung như phân tích khả năng thanh toán, phân tích tình hình nộp ngân sách Nhà nước, phân tích sức sinh lời của vốn chủ sở hữu hay các chỉ tiêu phân tích dành cho các công ty cổ phần phản ánh chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp.

2.1.3. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp

Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một quá trình được tổ chức khoa học, có hệ thống, sử dụng kết hợp các phương pháp kỹ thuật trong phân tích tài chính để đánh giá thực trạng tài chính, tiềm năng và hiệu quả kinh doanh cũng như dự báo nhu cầu tài chính và những rủi ro trong tương lai, giúp các đối tượng sử dụng thông tin đưa ra quyết định đúng đắn [4], [6], [11], [18].

Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp thực hiện ba chức năng cơ bản là chức năng đánh giá, chức năng dự báo và chức năng điều chỉnh [4]. Với chức năng đánh giá, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp phải làm rõ những vấn đề như việc tạo lập, phân phối, sử dụng vốn diễn ra như thế nào và ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh ra sao; xem xét những kết quả đạt được có đúng hay vượt mục tiêu, kế hoạch đề ra hay không. Với chức năng dự báo, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp thấy được tiềm lực tài chính, sự vận động của vốn trong tương lai, đặc biệt phải nhận thấy được tình hình tài chính trong chu kỳ kinh doanh tới, điều này sẽ giúp doanh nghiệp có những hành động hợp lý để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Căn cứ vào chức năng đánh giá và chức năng dự báo, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp thực hiện chức năng điều chỉnh; luôn luôn thực hiện chức năng điều chỉnh để những yếu tố bị lệch lạc đi vào đúng hướng,


nhằm giúp doanh nghiệp đạt được những mục tiêu, kế hoạch đã đề ra.

2.2. Phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán

2.2.1. Đặc điểm hoạt động của công ty chứng khoán có ảnh hưởng đến phân tích tình hình tài chính

CTCK là một tổ chức tài chính trung gian không thể thiếu trên thị trường chứng khoán – một thị trường có mức độ nhạy cảm cao và có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Do vậy, hoạt động của CTCK có những điểm khác biệt với hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác. Sau đây là một số đặc thù chủ yếu trong thành lập và hoạt động của các CTCK [2], [19], [20]:

- Về tổ chức:

CTCK là loại hình doanh nghiệp có điều kiện. Tại Việt Nam, việc thành lập và hoạt động của CTCK phải tuân thủ những quy định khắt khe của pháp luật về vốn pháp định, về cơ sở vật chất kỹ thuật, về nhân sự.... Trước hết, muốn thành lập CTCK với các ngành nghề kinh doanh khác nhau, doanh nghiệp phải bảo đảm mức vốn pháp định thích ứng với từng nghiệp vụ kinh doanh. Trường hợp CTCK muốn thực hiện tất cả các nghiệp vụ kinh doanh, tổng số vốn pháp định bắt buộc phải có là 300 tỷ VND. Đây là điểm quan trọng nhất để quyết định CTCK được phép thực hiện dịch vụ nào trên thị trường chứng khoán, nhằm đảm bảo mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư. Chẳng hạn, ở Việt Nam, theo quy định hiện hành, công ty muốn kinh doanh môi giới chứng khoán, mức vốn pháp định phải có là 25 tỷ VND; tự doanh chứng khoán, vốn pháp định tương ứng là 100 tỷ VND; bảo lãnh phát hành chứng khoán, vốn pháp định tương ứng 165 tỷ VND; tư vấn đầu tư chứng khoán, vốn pháp định là 10 tỷ VND [19], [20].

Cơ sở vật chất - kỹ thuật có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của các CTCK nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung nên được chi tiết hóa thành các điều kiện cụ thể (sàn giao dịch, văn phòng đặt lệnh, hệ thống máy chủ, máy tính cá nhân, máy in, thiết bị mạng, thiết bị lưu trữ, hệ thống đường truyền, hệ thống chống sét, phần mềm ứng dụng, trang thông tin điện tử ,…). Công ty phải có quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu 1 năm, trong đó diện tích làm sàn giao dịch phục


vụ nhà đầu tư tối thiểu 150m2. Các điều kiện khác phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán phải có đủ, bao gồm: sàn giao dịch phục vụ cho khách hàng, thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng các phần mềm thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán, trang thông tin điện tử, bảng tin để công bố cho khách hàng, hệ thống kho két bảo quản chứng khoán-tiền mặt-tài sản có giá trị khác và lưu giữ tài liệu, chứng từ giao dịch đối với CTCK có nghiệp vụ môi giới hay tự doanh chứng khoán. Đồng thời, công ty phải có hệ thống an ninh, bảo vệ an toàn trụ sở làm việc và hệ thống phòng cháy chữa cháy theo qui định của pháp luật [19], [20].

Mặt khác, các CTCK phải trang bị đủ hệ thống công nghệ thông tin phục vụ các hoạt động nghiệp vụ đã được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp phép; hệ thống đường truyền phải đạt tốc độ kết nối đảm bảo các giao dịch được thông suốt cùng các thiết bị sao lưu dự phòng chuyên dụng. Công ty phải có giải pháp bảo mật để bảo đảm an toàn cho hệ thống công nghệ thông tin như sử dụng thiết bị tường lửa (firewall), sử dụng thiết bị phát hiện và ngăn chặn xâm nhập (IPS), sử dụng phần mềm chống virus (Anti-Virus) và phần mềm chống gián điệp (Anti-Spyware), sử dụng mạng riêng ảo, mã hóa các dữ liệu đường truyền, kiểm soát truy cập web, tường lửa cho ứng dụng web. Các thông tin liên quan đến công ty phải được sao lưu trên băng từ, đĩa quang, ổ cứng và các thiết bị lưu trữ khác và được bảo vệ vật lý trong môi trường bảo mật và được lưu giữ an toàn; ...

Đối với vấn đề nhân sự, chứng khoán là một trong số ít các ngành nghề kinh doanh có yêu cầu khá chặt chẽ. Các vị trí chủ chốt của công ty như giám đốc (tổng giám đốc) phải có kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán ít nhất 3 năm và có kinh nghiệm quản lý điều hành tối thiểu 3 năm; phó giám đốc (phó tổng giám đốc), giám đốc và phó giám đốc chi nhánh yêu cầu là 2 năm. Giám đốc, phó giám đốc và các nhân viên kinh doanh của công ty chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp. Đồng thời, số người hành nghề chứng khoán cho mỗi nghiệp vụ kinh doanh tối thiểu là 03 người [19], [20].

Về điều kiện góp vốn để thành lập CTCK, cá nhân góp vốn phải là người có


năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không thuộc trường hợp đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị tòa án cấm hành nghề kinh doanh; đối với pháp nhân thì phải đang hoạt động hợp pháp và có đủ năng lực tài chính để tham gia góp vốn. Các cổ đông sáng lập hay thành viên sáng lập phải sử dụng nguồn vốn của chính mình để góp vốn thành lập công ty chứng khoán.

Với việc qui định chặt chẽ về điều kiện thành lập công ty chứng khoán sẽ góp phần đảm bảo các công ty chứng khoán phải thực sự là những công ty có đủ năng lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như nhân sự cho việc kinh doanh của mình; từ đó, tạo ra một thị trường chứng khoán phát triển bền vững.

- Về chế độ tài chính:

Ngoài việc thỏa mãn điều kiện về vốn pháp định, CTCK không được điều chỉnh tăng, giảm vốn điều lệ khi chưa chính thức hoạt động. CTCK phải thực hiện chế độ kế toán theo quy định của pháp luật hiện hành và phải có xác nhận kiểm toán độc lập cho báo cáo tài chính. CTCK phải tuân thủ nghiêm chỉnh quy định của Ủy ban Chứng khoán về chế độ báo cáo thường kỳ và bất thường theo yêu cầu của Ủy ban Chứng khoán [14]. Trong CTCK, tiền và các khoản tương đương tiền luôn được quy định chặt chẽ về cách thức quản lý và sử dụng. Tiền và các khoản tương đương tiền trong CTCK bao gồm tiền và tương đương tiền của chính CTCK; và tiền và tương đương tiền của khách hàng/nhà đầu tư. Pháp luật quy định các CTCK phải tách bạch rõ ràng hai khoản này trên những tài khoản cụ thể tại ngân hàng, và CTCK không được phép sử dụng, lạm dụng tiền của khách hàng để phục vụ cho quá trình kinh doanh.

- Về hoạt động:

Thị trường chứng khoán được xem là “phong vũ biểu” của nền kinh tế, là lĩnh vực rất nhạy cảm với bất kỳ sự biến động nào của thị trường trong nước và cả quốc tế, nó ảnh hưởng lớn đến nhà đầu tư. Do vậy, các thông tin do CTCK cung cấp phải có độ tin cậy cao, được cập nhật thường xuyên, liên tục; chốt theo từng ngày, từng giờ. Do giao dịch của nhà đầu tư trên lĩnh vực chứng khoán diễn ra liên tục nên nếu thông tin có sai sót sẽ gây thiệt hại cho nhà đầu tư và cho bản thân CTCK.

Xem tất cả 296 trang.

Ngày đăng: 30/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí