Đặc Điểm Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Hoạt Động Kinh Doanh Và Phân Cấp Quản Lý Tài Chính


37,8 tỷ đồng; có sự mất cân đối trong việc phân bố các công ty chứng khoán trên địa bàn cả nước. Do vậy, hoạt động chứng khoán chỉ thực sự sôi động ở 2 thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh, còn ở các tỉnh khác thì lĩnh vực này vẫn còn rất kém phát triển.

Tóm lại, qua phần thống kê số liệu trên cho thấy: thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé, non trẻ so với thị trường chứng khoán thế giới, qui mô của các CTCK rất nhỏ, phân bố không đồng đều. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn không ngừng phát triển, ngày càng có nhiều hàng hóa tham gia thị trường chứng khoán làm cho thị trường ngày càng phong phú, tạo sự hấp dẫn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thị trường chứng khoán Việt Nam luôn được kỳ vọng là một kênh dẫn vốn quan trọng, tiến đến trở thành công cụ huy động chủ yếu cho nền kinh tế quốc dân.

3.1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh và phân cấp quản lý tài chính

Ở Việt Nam, CTCK được phép tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) theo quy định của Luật Doanh nghiệp và được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán [14], [19], [20]. Mỗi loại hình này có những đặc điểm riêng về tổ chức bộ máy quản lý, về phân cấp quản lý tài chính cũng như những ưu thế và bất lợi riêng của mình. Hầu hết các CTCK Việt Nam được tổ chức theo hình thức công ty cổ phần, chỉ có rất ít CTCK tổ chức theo hình thức công ty TNHH như: Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội, Công ty TNHH Chứng khoán Kỹ thương, Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Thương mại Cổ phần Các doanh nghiệp ngoài Quốc doanh Việt Nam, Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Công ty TNHH một thành viên Chứng khoán Ngân hàng Đông Á.

Tổ chức bộ máy quản lý và phân cấp quản lý tài chính của CTCK có thể được xây dựng từ mức độ đơn giản đến phức tạp, điều này tùy thuộc vào quy mô của thị trường, vào khách hàng, vào các nghiệp vụ được phép hoạt động, vào tính


chất sở hữu, vào phương thức kinh doanh của chủ sở hữu, vào loại hình doanh nghiệp. Các CTCK Việt Nam có những quy mô như: từ một CTCK nhỏ, hoạt động nghiệp vụ đơn giản đến một CTCK lớn, hoạt động phức tạp đa năng, được quản lý chuyên môn hóa; từ một số lượng nhân viên hạn chế đến một CTCK lớn với nhiều chi nhánh và nhân viên; thuộc sở hữu trong nước đến liên doanh với các CTCK nước ngoài; từ nghiệp vụ môi giới thuần túy ban đầu đến việc CTCK thực hiện mọi nghiệp vụ chứng khoán. Khi thành lập CTCK, nhà quản lý và chủ doanh nghiệp luôn chú ý đến một số vấn đề như xác định cơ cấu, cơ sở pháp lý cần thiết, quy mô tổ chức, tuyển chọn, đào tạo và giữ chân nhân viên.

Cơ quan quyền lực cao nhất của CTCK là Hội đồng quản trị, Hội đồng quản trị bổ nhiệm Ban Giám đốc và Giám đốc điều hành CTCK. Giúp việc cho Hội đồng quản trị có Ban kiểm soát, có nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát tất cả các giao dịch chứng khoán. Các bộ phận chủ yếu của một CTCK gồm có: [14, tr.170-174]

- Bộ phận fron-office: Gồm nhiều phòng như phòng giao dịch, phòng tự doanh, nghiên cứu và phân tích chứng khoán, phòng bào lãnh phát hành, phòng quản lý quỹ đầu tư…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 296 trang tài liệu này.

- Bộ phận back-office: Như phòng kế toán – tài chính (Gồm bộ phận kế toán xử lý các hợp đồng và tài liệu giao dịch, soạn thảo, in ấn, gửi cho khách hàng, nhận lại từ khách hàng, lưu trữ các hợp đồng, chứng từ, lệnh; bộ phận tài chính có nhiệm vụ quản lý tài chính của công ty thông qua tài khoản chứng khoán và tiền, quản lý việc cho khách hàng vay tiền để đầu tư chứng khoán….); phòng Marketing để quan hệ với khách hàng của công ty, nhận lệnh; phòng quản trị hành chính tổng hợp; phòng đăng ký, lưu ký chứng khoán; phòng quan hệ quốc tế; phòng pháp chế; phòng tin học…

Các phòng này mang lại cho CTCK những khoản thu nhập to lớn bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng, tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu đó. Một CTCK là một thực thể riêng biệt và rất phức tạp, có cơ cấu hoạt động riêng và cơ cấu này luôn thay đổi theo thời gian. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và phân cấp quản lý tài chính chịu sự tác động của các nhân tố như: Trình độ chuyên mô hóa cao độ dẫn đến phân cấp quản lý, nhiều khi một số bộ phận trong tổ chức không phụ

Hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán Việt Nam - 12


thuộc lẫn nhau; ảnh hưởng của thị trường tài chính (thị trường tài chính có ảnh hưởng mạnh đến chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và khả năng thu lợi nhuận của công ty. Mọi hoạt động quản lý và chuyên môn trong CTCK đều diễn ra trong bối cảnh của thị trường chứng khoán); nhân tố con người (trong CTCK, quan hệ với khách hàng có tầm quan trọng số một. Sản phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Khách hàng tin tưởng vào người môi giới về mua bán chứng khoán, giá, thời điểm…Thành công của CTCK phụ thuộc vào chất lượng làm việc của nhân viên và cán bộ quản lý. Do vậy, CTCK phải thuê nhân viên phù hợp, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, có chế độ đền bù và khuyến khích nhân viên, có chính sách ưu đãi đối với nhân viên phù hợp với chiến lược quản lý nhân lực).

3.1.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán và bộ sổ kế toán

Bộ máy kế toán của các CTCK Việt Nam là phòng tài chính kế toán. Phòng này có nhiệm vụ tổ chức công tác kế toán trong toàn CTCK và thực hiện các công việc về tài chính kế toán liên quan đến hoạt động kinh doanh của CTCK. Bộ máy kế toán chủ yếu được tổ chức theo mô hình kế toán tập trung, do đó mọi công việc kế toán đều tập trung giải quyết ở phòng này.

Phòng tài chính kế toán thực hiện các nghiệp vụ kế toán tổng hợp, kế toán thanh toán, kế toán quản trị và kế toán thuế, thực hiện kiểm soát tài chính và thực hiện lập báo cáo tài chính, xây dựng ngân sách và theo dõi thực hiện ngân sách [14].

Kế toán trưởng là người đứng đầu bộ máy kế toán của CTCK, trực tiếp điều hành và tổ chức công tác kế toán, tham mưu cho giám đốc về việc xây dựng kế hoạch tài chính, đồng thời chịu trách nhiệm trước giám đốc về tính chính xác trung thực của các số liệu kế toán cũng như tình hình tài chính của CTCK. Kế toán tổng hợp có nhiệm vụ tổng hợp sổ sách của các kế toán phần hành, ghi sổ tổng hợp, lập BCTC, đồng thời bảo quản và lưu trữ hồ sơ chứng từ theo qui định. Bên cạnh đó, bộ máy kế toán của CTCK còn có các kế toán phần hành như kế toán thanh toán, kế toán quản trị và kế toán thuế… Mỗi phần hành được giao cho một hoặc một số kế toán viên phụ trách, các kế toán viên có nhiệm vụ ghi chép đầy đủ, kịp thời và chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến nội dung phần hành mà mình phụ trách.


Hình thức sổ kế toán quy định áp dụng thống nhất đối với CTCK là hình thức kế toán nhật ký chung và hình thức kế toán trên máy vi tính [1]. Trong mỗi hình thức sổ kế toán có những quy định cụ thể về số lượng, kết cấu, trình tự, phương pháp ghi chép và mối quan hệ giữa các sổ kế toán. CTCK phải căn cứ vào quy mô, đặc điểm hoạt động kinh doanh, yêu cầu quản lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán, điều kiện trang bị kỹ thuật tính toán để lựa chọn một hình thức sổ kế toán phù hợp và nhất thiết phải tuân thủ mọi nguyên tắc cơ bản của hình thức sổ kế toán đó về các mặt: Loại sổ, kết cấu các loại sổ, mối quan hệ và sự kết hợp giữa các loại sổ, trình tự và kỹ thuật ghi chép các loại sổ kế toán.

Hệ thống sổ kế toán của CTCK tuân thủ theo qui định của Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC, Thông tư số 95/2008/QĐ-BTC, theo đó, các loại sổ kế toán mà CTCK được phép sử dụng là: Sổ kế toán tổng hợp (như: sổ cái, sổ Nhật ký chung, bảng cân đối số phát sinh, sổ nhật ký thu tiền, sổ nhật ký chi tiền, sổ nhật ký mua hàng chưa thanh toán, sổ nhật ký cung cấp dịch vụ chưa thu tiền); sổ kế toán chi tiết (như: sổ quĩ tiền mặt; sổ tiền mặt, tiền gửi ngân hàng; sổ tiền mặt, tiền gửi ngoại tệ; sổ tiền đang chuyển; sổ tiền gửi của người đầu tư về giao dịch chứng khoán, sổ tiền gửi về bán chứng khoán bảo lãnh phát hành; sổ tiền gửi thanh toán bù trừ giao dịch chứng khoán; sổ tiền nộp quĩ hỗ trợ thanh toán; sổ kho chứng khoán chứng chỉ, sổ chi tiết doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán, sổ chi tiết chi phí hoạt động kinh doanh chứng khoán, sổ chi tiết kết quả thanh toán bù trừ giao dịch chứng khoán, sổ chi tiết chứng khoán lưu ký); ngoài ra còn có các bảng phân bổ như bảng phân bổ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn hay bảng tính và phân bổ tài sản cố định [1].

3.1.4. Vai trò của công ty chứng khoán

Thông qua các hoạt động trên thị trường chứng khoán, CTCK đã thể hiện vai trò quan trọng đối với thị trường nói chung và các chủ thể tham gia trên thị trường nói riêng. Một số vai trò chủ yếu của CTCK gồm: [14, tr.175-177]

- Huy động vốn cho doanh nghiệp và nền kinh tế: Các CTCK là các trung gian tài chính có vai trò huy động vốn, chuyển vốn từ nơi dư thừa sang nơi có nhu


cầu sử dụng vốn. Qua đó, một lượng vốn lớn ngày càng được tập hợp từ những nguồn nhỏ lẻ để đưa vào đầu tư phát triển doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Các CTCK thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động về nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán.

- Xác định giá cả chứng khoán: Thông qua sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, CTCK cung cấp cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình.

- Tạo ra sản phẩm: Khi thực hiện các hoạt động của mình, CTCK tạo ra sản phẩm vì họ là đại lý hay ủy thác trong quá trình mua bán chứng khoán, dịch vụ tư vấn đầu tư cho các nhà đầu tư và công ty.

- Thực hiện tính thanh khoản của chứng khoán: CTCK thực hiện cơ chế chuyển đổi này, giúp nhà đầu tư thực hiện mong muốn chuyển tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại một cách ít thiệt hại nhất. Việc mua bán chứng khoán thông qua CTCK sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, nhờ đó tiết kiệm được chi phí giao dịch, giúp nâng cao tính thanh khoản của chứng khoán, giúp các nhà đầu tư giảm được rủi ro trong quá trình mua bán chứng khoán vì các nhà đầu tư mua thì đảm bảo sẽ nhận được chứng khoán và đó là những chứng khoán thật, và đối với nhà đầu tư bán sẽ đảm bảo nhận được tiền sau khi giao chứng khoán.

- Thúc đẩy vòng quay của chứng khoán: CTCK tạo ra sản phẩm bằng cách cung cấp các hình thức đầu tư, góp phần làm tăng vòng quay của chứng khoán qua việc chú ý đến nhu cầu của người đầu tư, cải tiến các công cụ tài chính phù hợp với nhu cầu của khách hàng.

- Cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính: CTCK tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn, cung cấp các thông tin đa dạng, nghiên cứu thị trường cho các công ty cổ phần và cá nhân đầu tư về: thu thập và xử lý thông tin về các khả năng và cơ hội đầu tư, triển vọng ngắn hạn và dài hạn của thị trường chứng khoán và các công ty trong hiện tại và tương lai, tư vấn đầu tư chứng khoán…

- Giúp cơ quan quản lý thị trường chứng khoán một cách có hiệu quả: Một trong những nghiệp vụ của CTCK là phải cung cấp thông tin thị trường cho các nhà


đầu tư và cơ quan quản lý, việc cung cấp thông tin thị trường cho cơ quan quản lý nhằm mục tiêu quản lý thị trường. CTCK vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường, do vậy thông tin về nhà phát hành hay thông tin liên quan đến các giao dịch mua bán chứng khoán, thông tin về tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư…đều được CTCK báo cáo lên cơ quan quản lý. Nhờ đó, cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường và cũng qua các thông tin này, các cơ quan quản lý nắm bắt được thực trạng thị trường để từ đó có chính sách, biện pháp cho việc phát triển thị trường.

- Thúc đẩy các sản phẩm đầu tư: Các sản phẩm đầu tư hiện nay phát triển rất mạnh do yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính, sự nỗ lực trong tiếp thị của CTCK. Các CTCK có các dịch vụ yểm trợ rất to lớn đối với thị trường, vì mỗi loại sản phẩm có những quy trình riêng biệt và nhu cầu của khách hàng là đa dạng khác nhau.

3.2. Thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán Việt Nam

3.2.1. Khái quát thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán Việt Nam

Thông qua nguồn dữ liệu thứ cấp thu thập được từ 30 CTCK, kết hợp với các dữ liệu sơ cấp đã qua xử lý, có thể khái quát thực trạng phân tích tình hình tài chính của các CTCK như sau:

- Về tổ chức phân tích tình hình tài chính:

Hầu hết các CTCK được khảo sát là công ty cổ phần (27/30 công ty cổ phần, chiếm 90% trong tổng số 30 CTCK), niêm yết trên thị trường chứng khoán và là lĩnh vực kinh doanh đặc thù nên công tác phân tích tình hình tài chính được quan tâm rõ rệt. Tuy nhiên, phần lớn các CTCK vẫn chưa có bộ phận phân tích tình hình tài chính chuyên trách độc lập, 90% CTCK thực hiện phân tích tình hình tài chính tại phòng tài chính kế toán, 10% CTCK cho rằng công tác phân tích tình hình tài chính của CTCK được tiến hành bởi phòng phân tích và đầu tư. 50% CTCK có


công tác phân tích tình hình tài chính được tiến hành chủ yếu theo kế hoạch lập từ năm trước.

Công tác phân tích tình hình tài chính tại CTCK được tiến hành thường xuyên và/hoặc định kỳ, có 50% CTCK thực hiện phân tích thường xuyên và 50% CTCK có công tác phân tích được tiến hành định kỳ. 100% CTCK có thời gian tiến hành phân tích tình hình tài chính là hàng tháng, quý, nửa năm hoặc hàng năm. Thông thường, bộ phận kế toán sẽ tiến hành tính các chỉ tiêu tài chính chủ yếu để gửi đến Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Có 100% CTCK sử dụng nguồn số liệu chủ yếu là hệ thống báo cáo tài chính (BCTC) để phân tích tình hình tài chính, tập trung ở bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.

- Về phương pháp phân tích tình hình tài chính:

Có nhiều phương pháp khác nhau mà nhà phân tích có thể sử dụng, sự kết hợp đa dạng các phương pháp sẽ mang lại những kết quả đáng tin cậy và toàn diện. Tuy nhiên, một số ít CTCK mới chỉ áp dụng phương pháp so sánh theo thời gian, so sánh bằng số tuyệt đối và số tương đối, các chỉ tiêu được tính toán và tiến hành so sánh giữa kỳ này với kỳ trước.

- Về nội dung và chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính:

Qua nghiên cứu thực tế thì nội dung phân tích tình hình tài chính tại 100% CTCK khảo sát có một số đặc điểm như: hệ thống chỉ tiêu sử dụng rất ít, nội dung phân tích sơ sài (chỉ bao gồm: phân tích cơ cấu tài sản; phân tích cơ cấu nguồn vốn; phân tích khả năng thanh toán qua một số chỉ tiêu như hệ số khả năng thanh toán tổng quát, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán tức thời; phân tích tỷ lệ vốn khả dụng; phân tích hiệu quả kinh doanh qua một số chỉ tiêu cơ bản như sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu, sức sinh lợi của doanh thu thuần, sức sinh lợi của tài sản, số vòng quay), các thông tin công bố không phản ánh được nhịp điệu tăng trưởng và xu hướng tăng trưởng của các chỉ tiêu theo thời gian.

Việc công bố BCTC của CTCK là chậm trễ (có 20,83% các chuyên gia cho rằng thông tin phân tích tình hình tài chính CTCK là chậm trễ, 0% ý kiến cho rằng rất kịp thời) cũng phần nào hạn chế tác dụng của thông tin phân tích tình hình tài


chính. Có 0% ý kiến chuyên gia cho rằng mức độ tin cậy vào các thông tin phân tích tình hình tài chính là rất cao, có 37,5% ý kiến chuyên gia cho là thông tin phân tích tình hình tài chính là không tin cậy. Khoảng 32% chuyên gia cho rằng lý do họ không tin cậy vào các thông tin phân tích tình hình tài chính của CTCK vì thực tế có nhiều CTCK vi phạm về công bố thông tin tài chính, khoảng 16,67% chuyên gia cho rằng thông tin do chính các CTCK cung cấp không được thẩm định, khoảng 10% cho rằng do cơ chế khen thưởng xử phạt chưa xứng đáng, có khoảng 23,6% chuyên gia cho rằng họ có thể tin cậy vào các thông tin phân tích tình hình tài chính CTCK là do theo tâm lý đám đông. Khoảng 3% chuyên gia nhận định BCTC của CTCK là bịa đặt, giả tạo vì hệ thống BCTC chưa thể hiện đầy đủ, đúng đắn thực trạng tài chính của CTCK, gây không ít khó khăn lúng túng cho đối tượng sử dụng, số liệu BCTC dùng cho phân tích tình hình tài chính vẫn chưa được chuẩn hóa, việc lập, công khai BCTC và các thông tin từ phân tích tình hình tài chính chưa được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, theo nhu cầu sử dụng thông tin. Có 47,2% chuyên gia cho rằng việc tiếp cận thông tin phân tích tình hình tài chính của CTCK là không dễ dàng, có 20,83% chuyên gia cho rằng họ không hài lòng đối với các thông tin phân tích tình hình tài chính của CTCK, chỉ có 2,78% cho rằng họ hài lòng với thông tin tài chính được cung cấp. Ngoài ra, có khoảng 14% chuyên gia cho rằng các thông tin phân tích tình hình tài chính được công bố của CTCK là không công bằng, chỉ có 5,5% cho rằng thông tin đó công bằng.

3.2.2. Thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán Việt Nam

Khảo sát tại 30 CTCK Việt Nam cho thấy thực trạng phân tích tình hình tài chính của các CTCK thể hiện qua một số nội dung như phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn, phân tích khả năng thanh toán, phân tích hiệu năng hoạt động và khả năng sinh lợi, phân tích tỷ lệ vốn khả dụng, phân tích các hệ số phù hợp trong kinh doanh.

3.2.2.1. Phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn

Qua khảo sát thực tế, có 90% CTCK thực hiện phân tích cơ cấu tài sản và cơ

Xem tất cả 296 trang.

Ngày đăng: 30/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí