Hoàn thiện kế toán quản trị trong các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang - 2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Hiện nay, lâm nghiệp đang là một trong những lĩnh vực được Việt Nam chú trọng nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế (BCH Trung Ương, 2021), kinh tế lâm nghiệp được định hướng phát triển theo hướng hiện đại, vừa quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, vừa sử dụng bền vững diện tích rừng cũng như diện tích đất quy hoạch cho phát triển lâm nghiệp, đồng thời, vừa tạo vùng nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ và thương mại lâm sản, vừa góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người dân gắn với việc bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, bảo vệ quốc phòng và an ninh (Chính phủ, 2021).

Trong năm 2021, cả nước đã khai thác hơn 21 triệu m3 gỗ từ rừng trồng tập trung mà phần lớn được trồng tại diện tích đất lâm nghiệp do các công ty lâm nghiệp đang quản lý, đây là nguồn nguyên liệu quan trọng góp phần phát triển ngành công nghiệp sản xuất, chế biến gỗ bền vững, đồng thời, giúp những người trồng rừng và sống bằng nghề rừng có cơ hội để tăng thu nhập (Thành, 2022). Khi nhu cầu gỗ nguyên liệu tăng, tiêu chuẩn gỗ nguyên liệu ngày càng khắt khe, các công ty lâm nghiệp bị giới hạn bởi nguồn lực đất đai và chi phí sản xuất, nhà quản trị các công ty lâm nghiệp cần phải lựa chọn quyết định các phương án sản xuất kinh doanh vừa tăng quy mô sản xuất kinh doanh, áp dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất nhằm tăng sản lượng và nâng cao chất lượng gỗ nguyên liệu, vừa phải kiểm soát chi phí để không gây biến động lớn tới giá thành sản xuất. Do đó, sự phát triển của các công ty lâm nghiệp gắn với công tác quản trị đóng vai trò quan trọng trong phát triển lâm nghiệp cả nước.

Một trong các công cụ được sử dụng để cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản trị chính là kế toán quản trị. Kế toán quản trị hiện nay đã trở thành một bộ phận của quá trình quản lý, giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có thể tiếp cận thông tin tài chính và phi tài chính một cách trực tiếp, nhanh chóng và chính xác, đồng thời, KTQT cũng là công cụ phân bổ nguồn lực, thực hiện giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (Legaspi, 2018). Việc các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả hoặc thất bại là do không sử dụng công cụ KTQT (Lucas, Prowle, & Lowth, 2013). Ở Việt Nam, KTQT được chính thức công nhận vào năm 2003 và tiếp tục được khẳng định vào năm 2015 (Quốc Hội, 2015), tuy xuất hiện muộn hơn so với thế giới nhưng nó được coi là vấn đề cấp bách khi các doanh nghiệp muốn nâng cao chất lượng quản trị để tăng năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (Thu, 2019).

Tuyên Quang là một tỉnh thuộc khu vực trung du và miền núi phía Bắc, có

448.589 ha đất lâm nghiệp, chiếm 76% tổng diện tích đất tự nhiên, mức độ che phủ rừng đạt 65%, có khoảng 88% lực lượng lao động đang làm việc liên quan đến sản xuất lâm nghiệp (Cục Thống kê tỉnh Tuyên Quang, 2020), do đó, tỉnh đã đặt mục tiêu trở thành hình mẫu về phát triển lâm nghiệp của cả nước gắn với phát triển kinh tế - xã hội (UBND tỉnh Tuyên Quang, 2020). Phát triển kinh tế lâm nghiệp được Tuyên Quang xác định là một trong những khâu đột phát để trở thành tỉnh khá trong khu vực miền núi phía Bắc (ĐHĐB Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XVII, 2020), đồng thời, tỉnh rất đề cao vai trò của các CTLN trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế lâm nghiệp của địa phương (UBND tỉnh Tuyên Quang, 2019). Năm 2020, kinh tế lâm nghiệp của tỉnh tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao, giá trị sản xuất lâm nghiệp (theo giá so sánh năm 2010) tăng bình quân 7,8%/năm (Hương L. , 2021), kết quả này cho thấy định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là rất đúng đắn.

Đã có nhiều công trình khoa học trên thế giới và Việt Nam nghiên cứu về kế toán quản trị trong doanh nghiệp sản xuất. Trên thế giới, Sunarni (2013), Mihăilă (2014) và Legaspi (2018) khẳng định vai trò quan trọng của kế toán quản trị trong doanh nghiệp, là công cụ để nhà quản trị ra quyết định liên quan đến hoạt động nội bộ doanh nghiệp, Boučková (2015) cho rằng kế toán quản trị giúp gia tăng giá trị cho chủ sở hữu, các nhà nghiên cứu trong nước như Việt & cs. (2020), Phúc (2014) xem xét kế toán quản trị dưới góc độ là một môn khoa học. Đối với các doanh nghiệp sản xuất lâm nghiệp, các nghiên cứu Papaspyropoulos & cs. (2012), Lobianco & cs. (2016) và Hải (2016) nhấn mạnh về vai trò cung cấp thông tin của kế toán quản trị trên cơ sở hỗ trợ của kế toán tài chính, đồng thời, kế toán quản trị cũng là công cụ giúp nhà quản trị đưa ra kỳ vọng về lợi nhuận đầu tư vào rừng. Như vậy, kế toán quản trị trong doanh nghiệp sản xuất là điều cần thiết và cũng là xu thế tất yếu, tuy nhiên, làm thế nào để nâng cao, hoàn thiện và phát triển nó trong các doanh nghiệp sản xuất lâm nghiệp, các nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này còn rất mới và chưa đa dạng. Đặc biệt, tại địa bàn tỉnh Tuyên Quang, là một trong những tỉnh có diện tích rừng lớn nhất cả nước, trong tình hình mới, các công ty lâm nghiệp đã chuyển đổi thành công mô hình kinh doanh và các công ty lâm nhiệp ngoài quốc doanh đang ở trong những bước đầu của sự phát triển nhưng những nghiên cứu về công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất lâm nghiệp ở địa phương hầu như chưa có.

Mặt khác, các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang vẫn đặt trọng tâm vào kế toán tài chính, chưa quan tâm đúng mức đến việc vận dụng kế toán quản trị vào quản trị hoạt động sản xuất kinh doanh, chưa nhận thức tầm quan trọng của kế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.

toán quản trị đối với công tác điều hành doanh nghiệp1, bên cạnh đó, trình độ và năng lực công tác của đội ngũ kế toán chưa đồng đều, chưa đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới2. Kết quả, các công ty tuy đã áp dụng kế toán quản trị nhưng ở mức đơn giản, là sự kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị, trong đó, kế toán quản trị thực hiện chi tiết hóa số liệu của kế toán tài chính3, việc thiết lập hệ thống chỉ tiêu kinh tế gắn với chức năng quản lý của nhà quản trị chưa được thực hiện4 dẫn tới thông tin kế toán quản trị cung cấp chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà quản trị các cấp, chính vì vậy, các công ty lâm nghiệp chưa khai thác triệt để công cụ kế toán quản trị phục vụ quản trị và điều hành doanh nghiệp.

Từ thực tiễn công tác kế toán quản trị tại các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, cần thiết phải quan tâm đến hệ thống kế toán quản trị hơn nữa nhằm tạo nguồn thông tin chắc chắn cho nhà quản trị ra các quyết định, là điều kiện cần thiết để tận dụng và khai thác hiệu quả các nguồn lực, từ đó nâng cao vị thế cạnh tranh của các công ty trên thị trường.

Hoàn thiện kế toán quản trị trong các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang - 2

Vì vậy nghiên cứu vấn đề “Hoàn thiện kế toán quản trị trong các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trong bối cảnh đáp ứng yêu cầu phát triển của các công ty lâm nghiệp nói riêng và mục tiêu phát triển kinh tế lâm nghiệp địa phương nói chung.

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

2.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án

2.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về về các vấn đề lý luận chung của kế toán quản trị

KTQT là một bộ phận của hệ thống kế toán nhưng ra đời sau kế toán tài chính, tuy nhiên, sự xuất hiện của nó lại đang trở thành xu thế mới của kế toán hiện đại. Kể từ khi KTQT xuất hiện, có rất nhiều nghiên cứu về nó theo các cách tiếp cận khác nhau.

KTQT được các học giả nghiên cứu khá sớm theo nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nghiên cứu đầu tiên bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ XIX tại Mỹ, xuất phát từ nhu cầu tất yếu về việc kiểm soát và đánh giá hoạt động của nhà quản trị doanh nghiệp khi quy mô và phạm vi SXKD ngày càng mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Các nghiên cứu sau đó tiếp tục được kế thừa và phát triển tại nhiều quốc gia khác nhau, trong đó có Việt Nam.

Thứ nhất, cách tiếp cận theo góc độ quản lý


1 Tổng hợp từ kết quả khảo sát nhận thức về KTQT của các cấp quản trị trong các CTLN trên địa bàn tỉnh TQ.

2 Tổng hợp từ kết quả khảo sát năng lực và trình độ của kế toán trong các CTLN trên địa bàn tỉnh TQ

3 Tổng hợp từ kết quả thu thập tài liệu, chứng từ tại các CTLN trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.

4 Tổng hợp từ kết quả khảo sát nhu cầu thông tin cho kiểm soát, đánh giá của các cấp quản trị trong các CTLN trên địa bàn tỉnh TQ

Sunarni (2013) cho rằng KTQT là quá trình xác định, đo lường, phân tích, diễn giải và truyền đạt thông tin đáp ứng mục tiêu của doanh nghiệp, KTQT là một bộ phận cấu thành của quá trình quản lý. Thông thường, doanh nghiệp càng lớn thì nhu cầu về thông tin của các cấp quản lý càng lớn. Mục đích chính của KTQT trong doanh nghiệp nhằm giúp cho các cấp quản lý thực hiện chức năng của mình thông qua việc thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin. Từ “kế toán” không chỉ đề cập đến việc ghi chép chứng từ đơn thuần về nghiệp vụ giao dịch kinh doanh phát sinh mà còn bao gồm các lĩnh vực nghiên cứu khác. Theo quan điểm của học giả, KTQT không còn đơn thuần là người ghi chép nội dung thực hiện trong quá khứ mà đóng vai trò là người bổ sung giá trị cho các cấp quản lý của doanh nghiệp.

Mihăilă (2014) khẳng định KTQT là một nhánh của hệ thống kế toán, hỗ trợ nhà quản trị doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch, ra quyết định, kiểm soát và phân tích. Khi sử dụng hiệu quả công cụ này trong quá trình vận hành kinh doanh sẽ đảm bảo doanh nghiệp tăng trưởng có lãi và tối ưu hóa kinh doanh. Học giả cho rằng, KTQT là quá trình đo lường, xác định, tổng hợp, phân tích, giải thích và cung cấp thông tin tài chính được cấp quản trị sử dụng để lập kế hoạch, đánh giá và kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đảm bảo cho việc sử dụng cũng như quản lý phù hợp với nguồn lực hiện có. Do vậy, KTQT quan tâm đến việc cung cấp thông tin cho các nhà quản trị những người đang tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát hoạt động của nó.

Legaspi (2018) cũng khẳng định sự gắn kết giữa quản lý và kế toán thông qua 4 giai đoạn mô tả sự phát triển của quản lý định hướng kế toán của IFA, cụ thể: Giai đoạn đầu tiên là xác định chi phí và kiểm soát tài chính, lúc này, trọng tâm của KTQT là tính giá thành sản phẩm và kiểm soát tài chính của quá trình sản xuất; Giai đoạn thứ hai là thông tin để lập kế hoạch và kiểm soát quản lý, lúc này, kiểm soát quản lý được định hướng cho sản xuất và quản lý hành chính nội bộ doanh nhiệp hơn là việc xem xét chiến lược; Giai đoạn thứ ba là giảm lãng phí nguồn lực trong quá trình kinh doanh, thách thức lớn nhất của KTQT ở thời kỳ này là đảm bảo cung cấp thông tin thích hợp để hỗ trợ các cấp quản trị; Giai đoạn cuối cùng là giai đoạn tạo ra giá trị thông qua việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực, trong đó có sử dụng công nghệ để đánh giá khách hàng, các bên liên quan và quá trình đổi mới tổ chức. Học giả cho rằng, KTQT là việc đo lường, phân tích và cung cấp thông tin tài chính và phi tài chính liên quan đến việc ra quyết định của nhà quản trị. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, trong môi trường kinh doanh ngày nay, vai trò của kế toán viên đối với doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Doanh nghiệp cũng đánh giá cao hơn về việc sử dụng báo cáo phân tích nguồn tiền và các nguồn lực.

Ameen & cs. (2018) định nghĩa KTQT là quy trình mà các kế toán viên lành nghề cung cấp cả hai thông tin tài chính và phi tài chính cho các nhà quản trị ở các bộ phận khác nhau trong một tổ chức nhằm hỗ trợ, định hướng cho các quyết định của họ về các vấn đề cụ thể liên quan đến hoạt động của tổ chức. KTQT giống như đối tác của nhà quản trị trong quá trình ra quyết định quản trị vì kiến thức chuyên môn của kế toán viên giúp xác định các chiến lược, hỗ trợ ra quyết định và đảm bảo kế hoạch được thực hiện bởi nhà quản trị. Các cấp quản trị cần phải tham khảo ý kiến của KTQT thông qua hệ thống báo cáo KTQT hoặc tham khảo ý kiến trực tiếp như là một nhà tư vấn tài chính trước khi họ đưa ra các quyết định quan trọng. KTQT không chỉ làm việc với nhà quản trị cấp cao nhất trong tổ chức mà còn làm việc với các cấp quản trị khác, hoạt động của họ cũng không giới hạn ở các bộ phận cụ thể mà là toàn bộ các đơn vị hoặc các bộ phận trong tổ chức. Kế toán quản trị là một hệ thống quản lý có tính tổ chức cao mà việc thực hiện đòi hỏi sự chính xác, linh hoạt tùy thuộc vào tính chất từng loại hoạt động, đồng thời cũng phụ thuộc vào việc xác định phạm vi chi phí hoặc việc phân tích hoạt động.

Như vậy, theo cách tiếp cận này, KTQT được coi là công cụ để nhà quản trị đưa ra các quyết định liên quan đến các hoạt động nội bộ của tổ chức.

Thứ hai, cách tiếp cận theo chủ sở hữu

AICPA5 và CIMA6 (2014) cho rằng KTQT là việc vận dụng các nguyên tắc kế toán và các nguyên tắc quản trị tài chính nhằm tạo lập, giữ gìn và gia tăng giá trị cho chính chủ sở hữu của tổ chức đang hoạt động trong các khu vực tư nhân cũng như khu vực công. Cách tiếp cận này có sự khác biệt với các cách tiếp cận của cá nhân hay tổ chức khác bởi quan điểm này coi KTQT là công cụ với mục đích làm gia tăng giá trị cho chủ sở hữu trong khi các quan điểm KTQT là công cụ với mục đích phục vụ nhà quản trị trong việc thực hiện các chức năng quản lý của mình. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, khi giải thích theo lý thuyết về đại diện trong kinh tế học tổ chức, các khái niệm KTQT của cá nhân hay tổ chức theo các cách tiếp cận trên đều không có sự khác biệt lớn, bởi AICPA và CIMA tiếp cận theo vị trí người chủ sở hữu để đưa ra khái niệm, còn các cá nhân và tổ chức khác tiếp cận theo vị trí của nhà quản trị để đưa ra khái niệm. Mà theo lý thuyết về đại diện, mặc dù hai bên trong lý thuyết này là người chủ và người đại diện quản lý có mục tiêu không tương thích nhưng người chủ sở hữu có thể sử dụng một số công cụ để giúp nâng cao hiệu quả công việc, thực hiện cơ chế giám sát đối với người đại nhằm đạt được các lợi ích mà người chủ sở hữu mong muốn, KTQT chính là một trong những công cụ đó. Như vậy, theo lý


5 American Institute of Certified Public Accountants: Viện Kế toán công chứng Hoa Kỳ

6 Chartered Institute of Management Accountants: Hiệp hội Kế toán quản trị công chứng Anh quốc

thuyết về đại diện thì KTQT có thể được hiểu là công cụ để nhà quản trị thực hiện chức năng quản lý nhằm đạt được mục tiêu của chủ sở hữu.

Masztalerz (2014) định nghĩa KTQT là công cụ tạo ra giá trị đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển bền vững thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp đưa ra quyết định đúng đắn được căn cứ trên sự cung cấp và phân tích thông tin toàn diện cũng như vai trò trong lập kế hoạch thực hiện và kiểm soát việc thực hiện chiến lược, chính sách hoạt động. Định nghĩa này tập trung vào 2 vấn đề: thứ nhất, định nghĩa tập trung nhấn mạnh vào việc tạo ra giá trị, lập kế hoạch thành công, thực hiện chiến lược và kiểm soát chiến lược mà bỏ quan vai trò của kế toán truyền thống trong quản lý tài chính hằng ngày; thứ hai, định nghĩa đề cập đến sự thay đổi của KTQT từ vai trò hỗ trợ sang vai trò tham gia tích cực vào quá trình tạo ra giá trị thể hiện ở việc sử dụng thông tin do KTQT cung cấp giúp cải thiện độ chính xác trong các quyết định kinh doanh và đảm bảo giá trị tạo ra cho các bên liên quan. Như vậy, mục tiêu của KTQT là thu thập, lưu trữ và phân tích dữ liệu, đồng thời, cung cấp thông tin cho những người ra quyết định nhằm tạo điều kiện thực hiện các quyết định, từ đó, giúp cải thiện hiệu suất, tạo ra giá trị cho các bên liên quan, đóng góp vào sự thành công của tổ chức.

Boučková (2015) cũng định nghĩa KTQT dựa trên lý thuyết về đại diện, học giả cho rằng KTQT tạo ra giá trị cho chủ sở hữu thông qua việc giám sát và thiết kế hệ thống giám sát tối ưu. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng KTQT ngày càng đáp ứng được nhu cầu về giám sát hành vi của người quản lý, ngoài ra, còn đáp ứng thêm yêu cầu về kiểm soát và quản lý việc giám sát chi phí. Thay vì như KTQT truyền thống tập trung vào các kết quả tài chính thì KTQT trong những năm gần đây đã có sự thay đổi khi quan tâm đến các chỉ số khác, như: các chỉ số phi tài chính về mối quan hệ với khách hàng, lòng trung thành của khách hàng, động lực và lòng trung thành của nhân viên…, các chỉ số liên quan đến môi trường kinh doanh bên ngoài về nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ cạnh tranh.

Thứ ba, cách tiếp cận theo tư cách một bộ phận khoa học

Tiếp cận theo hướng KTQT với tư cách là một bộ phận khoa học được phần lớn các nhà nghiên cứu Việt Nam lựa chọn, khái niệm về KTQT mang tính khoa học hàn lâm và được đặt trọng tâm vào đối tượng, phương pháp nghiên cứu.

Tiên (2009) cho rằng KTQT là một môn học thuộc nhóm ngành khoa học, KTQT cung cấp thông tin dưới dạng định lượng cho quá trình quản trị của nhà quản trị doanh nghiệp thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thu thập, xử lý và phân tích thông tin để cho quá trình quản lý được diễn ra xuyên suốt, liền mạch giữa các các hoạt

động lập kế hoạch, tổ chức việc thực hiện kế hoạch, kiểm tra và đánh giá kết quả thực hiện hoạt động.

Quang (2014) cũng định nghĩa KTQT là một môn khoa học nhưng nhóm tác giả cho rằng, ngoài việc cung cấp thông tin dưới dạng định lượng, KTQT còn cung cấp thông tin dưới dạng định tính. Như vậy, KTQT đã được nhóm tác giả định nghĩa theo quan điểm KTQT hiện đại mà nhiều học giả nước ngoài hướng tới, thông tin mà KTQT cung cấp mang tính toàn diện, linh hoạt phục vụ cho quá trình ra quyết định. Điều này thể hiện ở việc các quyết định của nhà quản trị đều được căn cứ dựa trên kế hoạch, dự toán, báo cáo kiểm tra, đánh giá tình hình hình thực hiện. Hoạt động của KTQT là một quy trình hoàn toàn khép kín và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.

Phúc (2014) quan điểm rằng KTQT là công cụ chuyên ngành kế toán, do đó, nó là một bộ phận không thể tách rời với hệ thông kế toán doanh nghiệp, đồng thời, việc thu thập, xử lý, thiết kế thông tin của KTQT đều phải xuất phát từ yêu cầu của từng cấp quản trị nội bộ khác nhau. Thực tế, sự ra đời của KTQT xuất phát từ nhu cầu ngày càng cao của nhà quản trị về số lượng cũng như chất lượng của thông tin kinh tế - tài chính, sau này, KTQT phát triển cao hơn xuất phát từ nguyên nhân cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế và cao hơn nữa là giữa các quốc gia trong tổng thể nền kinh tế. Nhưng dù là phát triển theo cấp độ nào thì và trong bất cứ một hình thái nào thì sự tồn tại của KTQT cũng gắn liền với thông tin mà nhà quản trị cần sử dụng để đưa ra quyết định điều hành hoạt động hướng tới mục tiêu tối đa lợi nhuận.

Việt & cs. (2020) nghiên cứu KTQT trên các khía cạnh đặc trưng của nó và theo một trật tự khoa học và logic.Việc nghiên cứu được thực hiện từ chính đối tượng và phương pháp của KTQT trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Nhóm tác giả cũng định nghĩa KTQT theo cách tiếp cận với tư cách là một bộ môn khoa học, thông tin mà KTQT cung cấp là thông tin định lượng nhưng có sự mối quan hệ chặt chẽ với thông tin định tính để đảm bảo thông tin cung cấp có độ chính xác cao, phù hợp với từng điều kiện hoạt động SXKD và quy mô doanh nghiệp.

2.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về nội dung KTQT

2.1.2.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về nội dung kế toán quản trị

Thống kê các nghiên cứu về nội dung KTQT mà tác giả được biết, có thể phân chia thành 3 hướng nghiên cứu chính, cụ thể: (1) Các nghiên cứu tiếp cận nội dung kế toán quản trị theo quá trình kế toán quản trị gắn với chức năng quản lý của nhà quản trị; (2) Các nghiên cứu tiếp cận nội dung kế toán quản trị theo quy trình kế toán quản trị thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin; (3) Các nghiên cứu tiếp cận nội dung kế toán quản trị theo mối quan hệ của KTQT với các cấp quản trị.

* Các nghiên cứu tiếp cận nội dung kế toán quản trị theo quá trình kế toán quản trị gắn với chức năng quản lý của nhà quản trị

Việc tiếp cận nội dung KTQT theo chức năng quản lý của nhà quản trị đã được thực hiện trong một số nghiên cứu tiêu biểu mà tác giả được biết.

Tayles (2011) đã phân loại và nhận diện các nội dung của KTQT theo 2 nhóm chức năng quản lý của nhà quản trị, gồm nhóm chức năng kiểm soát, đo lường hiệu quả và nhóm chức năng ra quyết định chiến lược. Mặt khác, tác giả cũng nhận diện nội dung KTQT theo 2 chủ thể quản trị, cụ thể: nhóm các nội dung KTQT phục vụ cho nhà quản trị tác nghiệp và nhóm các nội dung KTQT phục vụ cho nhà quản trị chiến lược. Trên cơ sở đó, tác giả tiếp tục nhận diện nội dung KTQT theo chức năng quản lý của các cấp quản trị. Nghiên cứu đã cung cấp được những cái nhìn đa chiều về nội dung KTQT trong mối quan hệ với chức năng quản lý của nhà quản trị, KTQT được coi là công cụ cung cấp thông tin phục vụ cho các cấp quản trị của doanh nghiệp (cấp quản trị chiến lược và cấp quản trị tác nghiệp) thực hiện các chức năng quản lý của nhà quản trị gồm hoạch định, kiểm soát, đánh giá hiệu quả và ra quyết định.

Raghunandan & cs. (2012) cho rằng dự toán chính là một phần của quá trình kiểm soát trong hoạt động quản trị, nó được thiết kế để thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực và hỗ trợ cung cấp thông tin cho việc thực hiện chức năng của nhà quản trị. Hầu hết mọi doanh nghiệp với mọi mức độ quy mô, tính chất phức tạp của hoạt động hay lĩnh vực khác nhau, để đạt được mục tiêu chiến lược đề ra, đều phải dựa vào dự toán và hệ thống dự toán. Sự thành công và tầm quan trọng của việc lập dự toán liên quan đến việc xác định mục tiêu, phân bổ nguồn lực, trách nhiệm thực hiện. Đây là một trong những nội dung quan trọng của KTQT giúp tổ chức gặt hái được thành công nếu biết sử dụng đúng cách. Nghiên cứu cũng khẳng định lập dự toán giúp thúc đẩy sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận với nhau thông qua việc sử dụng thông tin liên quan nhằm đạt được mục tiêu cụ thể của mỗi bộ phận và mục tiêu chung của tổ chức. Có 3 mô hình lập dự toán mà nhóm tác giả đưa ra, cụ thể: mô hình lập dự toán từ trên xuống, mô hình lập dự toán từ dưới lên và mô hình thỏa thuận. Nghiên cứu tập trung vào công tác lập dự toán của KTQT nhằm phục vụ chức năng kiểm soát, đánh giá của nhà quản trị, chưa khai thác nội dung hoạt động khác của KTQT.

Gray và Milne (2013), Adams & cs. (2013) đề cao vai trò của KTQT trong việc cung cấp thông tin cho nhà quản trị về thực tế sử dụng nguồn lực và dự kiến phân bổ nguồn lực trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững cho doanh nghiệp. Các nghiên cứu cùng chung quan điểm về việc muốn duy trì tính bền

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/03/2023