Phân Tích Thông Tin Thích Hợp Cho Quá Trình Ra Quyết Định Và Dự Báo Tương Lai


linh hoạt để so sánh mới có tác dụng so sánh với chi phí và doanh thu thực tế. Nghĩa là chi phí và doanh thu của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo dự toán cần được điều chỉnh theo mức độ hoạt động thực tế (dự toán linh hoạt).

Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể lập theo 2 phương pháp là: phương pháp toàn bộ phương pháp trực tiếp. Với mỗi loại báo cáo, ngoài cột chỉ tiêu, sẽ có cột số dự toán, số thực tế, sẽ có thêm cột chênh lệch để đánh giá sự biến động của chi phí, doanh thu và lợi nhuận giữa dự toán và thực tế thực hiện. Mỗi báo cáo cho DN cách nhìn khác nhau về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Trong báo cáo kết quả kinh doanh theo phương pháp toàn bộ, chi phí được chia thành chi phí giá vốn hàng bán theo phương pháp toàn bộ (bao gồm CP NVL TT, CP NCTT và CP SXC), CP BH và CP QLDN. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được lập theo phương pháp này nhằm phân tích chi phí, doanh thu và lợi nhuận theo yêu cầu thông tin KTTC, cung cấp cho đối tượng bên ngoài DN và nhà quản trị cũng sử dụng thông tin trên báo cáo này để có cái nhìn khái quát về hoạt động của DN. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo phương pháp trực tiếp, chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi. Báo cáo kết quả kinh doanh theo phương pháp này thể hiện mức độ hoạt động thay đổi làm thay đổi chi phí như thế nào từ đó có đánh giá phân tích được cơ cấu chi phí (biến phí và định phí) phù hợp.

1.2.4.2. Phân tích thông tin thích hợp cho quá trình ra quyết định và dự báo tương lai

Phân tích thông tin tương lai bao gồm phân tích mối quan hệ Chi phí- Khối lượng- Lợi nhuận, phân tích điểm hoà vốn, sử dụng thông tin thích hợp cho quá trình ra quyết định

* Phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận (C-P-V)

Phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động sẽ chia chi phí thành chi phí biến đổi và chi phí cố định. Chi phí biến đổi là chi phí thay đổi theo mức độ hoạt động, còn chi phí cố định là chi phí không thay đổi theo mức độ hoạt động trong phạm vi phù hợp. Dựa trên mối quan hệ giữa chi phí và mức độ hoạt


động như vậy có thể xây dựng nên phương trình phân tích mối quan hệ giữa chi phí

–khối lượng – lợi nhuận.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 361 trang tài liệu này.


Lợi =

Hoàn thiện kế toán chi phí với việc tăng cường quản trị chi phí trong các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi - 11

nhuận

Sản lượng sản phẩm tiêu thụ


Giá bán

- Biến phí - Định phí (1.21)

đơn vị


Chênh lệch giữa giá bán và biến phí đơn vị được gọi là lãi góp (hay lãi trên biến phí hay số dư đảm phí) trên một đơn vị sản phẩm. Tổng lãi góp sẽ bằng doanh thu trừ (-) tổng chi phí biến đổi. Chỉ tiêu lãi góp thể hiện phần lãi DN nhận được khi tiêu thụ một đơn vị sản phẩm khi mà chưa tính đến yếu tố định phí. Vì vậy, khi đã đạt điểm hòa vốn- là điểm mà lợi nhuận của DN bằng không và DN đã bù đắp hết chi phí cố định- thì với mỗi sản phẩm tiêu thụ được thêm ngoài sản lượng hòa vốn thì sẽ mang lại cho DN mức lợi nhuận bằng đúng lãi góp của sản phẩm đó. Chỉ tiêu lãi góp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc lựa chọn các phương án kinh doanh. Tỷ lệ lãi góp lại được tính bằng lãi góp chia cho giá bán sản phẩm để xác định được tỷ lệ phần trăm lãi góp trên giá bán. Tỷ lệ lãi góp phản ánh sự thay đổi của lãi góp theo sự thay đổi của doanh thu, khi doanh thu thay đổi 100 đơn vị thì lãi góp của đơn vị sẽ thay đổi đúng bằng 100 đơn vị nhân với tỷ lệ lãi góp. Trong việc phải đánh đổi doanh thu của sản phẩm này bằng sản phẩm khác thì sản phẩm có tỷ lệ lãi góp cao hơn sẽ chiếm ưu thế hơn. Tuy nhiên, cần phân biệt chỉ tiêu lãi góp và lãi gộp. Lãi góp là chênh lệch giữa giá bán và biến phí đơn vị, còn lãi gộp là chênh lệch giữa doanh thu thuần và giá vốn hàng bán. Lãi góp là một chỉ tiêu quan trọng được sử dụng trong KTQT, còn lãi gộp là một chỉ tiêu trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của KTTC. Hai chỉ tiêu đều được sử dụng để bổ sung cho nhau trong việc đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của DN.

Ngoài ra, kế toán xác định điểm hoà vốn nhằm mục đích đánh giá các phương án kinh doanh. Điểm hòa vốn là điểm mà lợi nhuận của doanh nghiệp bằng không, tức là doanh nghiệp không lãi không lỗ, tại điểm đó DN đã bù đắp được hết chi phí cố định. Xác định được điểm hoà vốn sẽ giúp cho quá trình kinh doanh của DN được chủ động và tích cực. Căn cứ vào mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận thì có thể xác định được sản lượng hòa vốn và doanh thu hòa vốn:


Sản lượng hòa vốn

= Định phí

Lãi góp đơn vị


(1.22)


Doanh thu hòa vốn

= Định phí

Tỷ lệ lãi góp


(1.23)


Doanh thu hòa vốn hay sản lượng hòa vốn chính là cột mốc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, DN sẽ phấn đấu vượt xa điểm hòa vốn càng xa càng tốt. Khi càng vượt xa điểm hòa vốn thì sẽ có một khoảng cách an toàn giữa sản lượng, doanh thu thực tế với sản lượng, doanh thu hòa vốn, khoảng cách đó được gọi là khoảng an toàn hay mức an toàn


Mức an toàn về doanh thu =

Doanh thu thực tế -

Doanh thu hòa vốn


(1.24)


Mức an toàn về sản =

lượng

Sản lượng -

thực tế

Sản lượng hòa vốn


(1.25)


Có thể nhận thấy ngay rằng mức sản lượng hòa vốn và doanh thu hòa vốn càng thấp càng tốt vì như vậy doanh nghiệp sẽ nhanh hòa vốn, còn với mỗi sản phẩm sau điểm hòa vốn sẽ đem lại cho doanh nghiệp mức lợi nhuận bằng đúng lãi góp đơn vị sản phẩm. Ngược lại, mức an toàn về doanh thu và mức an toàn về sản lượng càng lớn sẽ càng tốt vì doanh nghiệp đã có một khoảng cách an toàn lớn so với điểm hòa vốn.

Trong thực tế, rất ít DN chỉ sản xuất một sản phẩm. Trong trường hợp doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại sản phẩm thì có thể xác định được điểm hòa vốn cho từng sản phẩm. Trước hết cần xác định số dư đảm phí đơn vị bình quân bằng tổng của các tích giữa lãi góp đơn vị của từng sản phẩm nhân với cơ cấu sản lượng tiêu thụ của từng sản phẩm. Sau đó áp dụng công thức trên để tính sản lượng hòa vốn toàn DN bằng tổng định phí chung chia cho lãi góp đơn vị bình quân. Cuối cùng, căn cứ vào cơ cấu sản lượng tiêu thụ của từng sản phẩm để tính được sản lượng hòa vốn của từng sản phẩm riêng biệt.


Tương tự, khi biết được cơ cấu doanh thu của từng sản phẩm và tỷ lệ lãi góp của từng sản phẩm thì có thể xác định được doanh thu hòa vốn của từng sản phẩm riêng biệt:

Lãi góp đvsp bình quân = ( Lãi góp đvspi x Cơ cấu sản lượng spi)

(1.26)


Sản lượng hòa vốn Định phí


(1.27)

=

toàn DN

Lãi góp đvsp bình quân


Sản lượng hòa vốn sản phẩm i

= Sản lượng hòa vốn toàn DNx

Cơ cấu sản lượng sản phẩm i


(1.28)


Tỷ lệ lãi góp bình quân = (Tỷ lệ lãi góp đvsp i x Cơ cấu doanh thu spi)

(1.29)



Doanh thu hòa vốn toàn DN

Doanh thu toàn DN

= Tỷ lệ lãi góp bình quân


(1.30)


Doanh thu hòa vốn =

sản phẩm i

Doanh thu hòa vốn toàn DN x

Cơ cấu doanh thu sản phẩm i


(1.31)


Lợi nhuận của một DN còn chịu ảnh hưởng bởi cơ cấu chi phí. Cơ cấu chi phí là tỷ lệ tương đối giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi trong một doanh nghiệp. Không thể xác định được chính xác cơ cấu chi phí như thế nào là phù hợp vì điều đó phụ thuộc vào từng DN, từng thời kỳ và sự biến động của môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, một DN có cơ cấu chi phí với phần định phí lớn hơn thì với một mức tăng doanh thu sẽ có được mức lợi nhuận tăng thêm cao hơn DN có cơ cấu chi phí với phần biến phí lớn hơn. Ngược lại, khi phải đối mặt với tình trạng doanh thu giảm thì DN có cơ cấu chi phí cố định nhỏ hơn sẽ bị sụt giảm lợi nhuận ít hơn. Vì vậy, một cơ cấu chi phí thiên về biến phí hay định phí đều có mặt lợi và mặt hại, việc lựa chọn cơ cấu chi phí phù hợp với một DN cụ thể sẽ phụ thuộc vào đặc điểm của DN và dự tính sự biến động của môi trường kinh doanh hiện tại và trong tương lai. Cơ cấu chi phí có ảnh hưởng tới mức tăng lợi nhuận, tức là ảnh hưởng tới đòn bẩy hoạt động. Đòn bẩy hoạt động được tính


bằng lấy tổng lãi góp chia cho tổng lợi nhuận


Mức đòn bẩy

hoạt động =

Tổng lãi góp Tổng lợi nhuận


(1.32)


Như vậy, một DN với mức định phí lớn hơn sẽ có mức đòn bẩy hoạt động lớn hơn. Mức đòn bẩy hoạt động thể hiện với mức tăng doanh thu lên x % thì có thể mong đợi mức tăng lợi nhuận ròng là mức đòn bẩy hoạt động nhân với x %. Doanh nghiệp có mức đòn bẩy lớn hơn, khi có mức tăng doanh thu tăng sẽ đem lại lợi nhuận lớn hơn DN có cùng mức tăng doanh nhưng có mức đòn bẩy hoạt động nhỏ hơn. Ngược lại, với mức sụt giảm về doanh thu thì DN có đòn bẩy lớn hơn sẽ bị sụt giảm về lợi nhuận lớn hơn.

Như vậy, dựa trên nền tảng cơ bản là phân tích chi phí thành chi phí cố định và chi phí biến đổi để xây dựng mối quan hệ chi phí- khối lượng – lợi nhuận để lựa chọn các phương án kinh doanh. Phân tích CVP hướng dẫn các nhà quản trị trong việc lựa chọn phương án và ra quyết định. Tuy nhiên, phân tích CPV chỉ được thực hiện trên các giả định là cơ cấu chi phí và cơ cấu tiêu thụ không thay đổi, giá bán cố định và sản lượng sản xuất và tiêu thụ là như nhau.

* Phân tích thông tin chi phí thích hợp cho việc ra quyết định quản trị DN trong các trường hợp đặc biệt

Có nhiều cách phân loại chi phí cũng như có nhiều phương pháp xác định chi phí và tính chi phí cho giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, chi phí khác nhau cho những mục đích khác nhau, không phải tất cả các chi phí đều là chi phí phù hợp cho quá trình ra quyết định. Và để phục vụ cho quá trình ra quyết định không bị gây nhầm lẫn thì cần xác định chi phí phù hợp cho quá trình ra quyết định và loại bỏ chi phí không phù hợp cho quá trình ra quyết định. Một chi phí phù hợp là một chi phí phát sinh bằng tiền trong tương lai và có sự khác nhau giữa các phương án. Như vậy, chi phí chênh lệch, chi phí cơ hội là các chi phí phù hợp; ngược lại, chi phí chìm là chi phí không phù hợp với việc ra quyết định vì nó không có sự khác biệt giữa các phương án được đưa ra xem xét lựa chọn. Tương tự, chi phí có thể tránh được là chi phí phù hợp, chi phí không thể tránh được là chi phí không phù hợp nên cần được


loại ra khỏi quá trình lựa chọn. Tuy nhiên, để phục vụ cho quá trình ra quyết định thì cần quan tâm đến doanh thu phù hợp. Doanh thu phù hợp cũng giống như chi phí phù hợp, đó là doanh thu thể hiện được bằng tiền trong tương lai và có sự khác nhau giữa các phương án. Khi chưa xét đến các yếu tố khác như các yếu tố định tính, thì việc xác định lựa chọn các phương án ra quyết định là việc so sánh giữa doanh thu và chi phí phù hợp giữa các phương án.

Một nhà quản trị thường phải đối mặt với các quyết định như đưa thêm hay loại bỏ các sản phẩm hay các bộ phận sản xuất kinh doanh; quyết định mua ngoài hay tự sản xuất (cần chú ý đến chi phí cơ hội của việc tận dụng máy móc nhà xưởng vì có thể ảnh hưởng đến quyết định); quyết định bán hay tiếp tục chế biến; quyết định chấp nhận hay từ chối một đơn hàng đặc biệt; ra quyết định trong trường hợp khan hiếm nguồn lực. Trong trường hợp như vậy thì thông tin chi phí phù hợp và doanh thu phù hợp có vai trò giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định lựa chọn phương án tối ưu.

1.3. Mô hình bộ máy kế toán chi phí

“Mô hình kế toán quản trị áp dụng cho DN thể hiện tổng quát các yếu tố cấu thành nên kế toán quản trị và quyết định đến thực thi, định hướng xây dựng, phát triển kế toán quản trị [5, tr56]. Có các mô hình tổ chức kế toán quản trị sau:

- Mô hình kế toán quản trị và kế toán tài chính theo mô hình kết hợp. Theo mô hình này, mỗi nhân viên kế toán đồng thời thực hiện công việc KTTC và KTQT, không tổ chức bộ máy kế toán quản trị riêng. Mô hình này có ưu điểm là tận dụng được bộ máy nhân sự của kế toán tài chính nên tiết kiệm được chi phí, bộ máy gọn nhẹ, nhưng có nhược điểm là thông tin không chuyên môn hóa, việc cung cấp thông tin không kịp thời. Mô hình này áp dụng thích hợp với các DN có quy mô nhỏ, khối lượng nghiệp vụ ít.

- Mô hình kế toán tài chính và kế toán quản trị tách biệt. Theo mô hình này, trong một doanh nghiệp có hai bộ phận kế toán riêng: Bộ phận kế toán tài chính thu thập và xử lý cung cấp thông tin bằng báo cáo tài chính và cung cấp chủ yếu cho các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp. Bộ phận kế toán quản trị thu thập và xử lý thông tin để cung cấp thông tin cho yêu cầu quản trị và


quyết định quản lý kinh tế trong nội bộ đơn vị kế toán. Mô hình này có ưu điểm là thông tin kế toán quản trị cung cấp nhanh chóng, kịp thời, chuyên nghiệp và đảm bảo tính chuyên môn hóa cao. Tuy nhiên, theo mô hình này cũng có nhược điểm là chi phí cao do phải tổ chức riêng một bộ phận kế toán quản trị.

Tổ kế toán T.Toán

Tổ kế toán tài sản

Tổ kế toán nguồn vốn

Phòng kế toán

Tổ tổng hợp

Tổ kế toán chi phí

Tổ dự toán

Tổ phân tích, đánh giá

- Ngoài ra còn có mô hình thứ 3 là mô hình hỗn hợp là mô hình vừa có tính tách rời vừa có tính kết hợp. “Đối với những phần hành có tình tương đồng giữa KTTC và KTQT thì sẽ áp dụng mô hình kết hợp, còn những phần hành có sự khác biệt căn bản và có ý nghĩa cung cấp thông tin đặc biệt quan trọng đối với DN thì sẽ được tổ chức theo mô hình tách rời” [31, tr49] như phần lập dự toán, phần phân tích, phần dự án.


Tổ nghiên cứu dự án

Sơ đồ 1.5: Mô hình kế toán quản trị theo mô hình hỗn hợp

Việc xây dựng mô hình KTQT bao gồm 2 nội dung quan trọng là xây dựng cơ chế vận hành các nội dung KTQT và cơ chế vận hành nhân sự kế toán. Việc lựa chọn mô hình nào là tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi DN nhưng phải đảm bảo cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định và đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả. Qua phân tích lý luận, thực tiễn trên về kế toán quản trị và kết hợp với định hướng phát triển của chính sách kế toán Việt Nam, môi trường kế toán kế toán Việt Nam, thì việc xây dựng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở Việt Nam phải hướng đến tính linh hoạt, hữu ích và quyền lựa chọn ở


doanh nghiệp, phù hợp với đặc điểm của từng ngành, từng doanh nghiệp.

1.4. Kinh nghiệm về kế toán chi phí của một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam

1.4.1. Kinh nghiệm vận dụng kế toán chi phí của Anh và Mỹ

Hệ thống kế toán Mỹ và Anh có sự tương đồng, đều gồm hai bộ phận là KTTC và KTQT. KTTC liên quan đến báo cáo các hoạt động của DN cho các đối tượng sử dụng thông tin ra bên ngoài DN như cơ quan thuế, cơ quan thống kê, các chủ nợ… Thông tin KTTC thường được trình bày dưới dạng các báo cáo tổng kết tài sản, bảng báo cáo thu nhập. Đó là các báo cáo tổng hợp, phản ánh bức tranh tổng quát về tình hình tài chính của một công ty. Còn KTQT là kế toán mà thông tin chủ yếu cung cấp cho các đối tượng sử dụng trong nội bộ DN, phục vụ công tác điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong DN. Hệ thống kế toán Anh và Mỹ rất chú trọng đến KTQT nói chung và KTQT chi phí nói riêng. KTQT chi phí của Anh, Mỹ vào những năm cuối thập kỷ 80 thế kỷ 20 chủ yếu áp dụng mô hình kế toán chi phí truyền thống, ngày nay đã phát triển việc vận dụng phương pháp chi phí theo hoạt động (ABC). KTQT của Anh và Mỹ thường tập trung vào việc lập định mức và dự toán chi phí, áp dụng các cách phân loại chi phí, đặc biệt là phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí; kế toán giá phí theo công việc hoặc quá trình; phương pháp chi phí trực tiếp và phương pháp chi phí toàn bộ; phân tích mối quan hệ chi phí- khối lượng- lợi nhuận, phân tích chi phí sản xuất, sử dụng báo cáo bộ phận và kế toán trách nhiệm để kiểm soát chi phí, sử dụng các thông tin chi phí phù hợp cho việc ra quyết định. Hệ thống KTQT của Anh và Mỹ được thiết lập nhằm mục đích cung cấp thông tin cho việc ra quyết định quản trị DN nên KTQT của Anh và Mỹ sử dụng nhiều mô hình và các phương pháp định lượng thông tin. Trong hệ thống KTQT của Anh và Mỹ, mà trung tâm là KTQT chi phí đã cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản trị DN, phục vụ cho công tác kiểm soát chi phí, ra quyết định kinh doanh và phục vụ việc lập kế hoạch cho tương lai. Tại Anh và Mỹ, KTQT được coi là công việc riêng của DN nên nhà nước không can thiệp sâu vào chuyên môn, nghiệp vụ. KTQT luôn được nhận thức là một bộ phận chuyên môn trong tổ chức bộ máy kế toán, nhưng ngày càng có sự chuyển biến theo chiều hướng KTQT trở

Xem tất cả 361 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí