bằng chứng về việc giao hàng của người bán. Đối với phương thức giao hàng bằng đường biển thì vận đơn được xem là chứng từ quan trọng nhất, vừa là bằng chứng xác nhận hợp đồng chuyên chở, vừa là biên lai của Người chuyên chở xác nhận đã nhận hàng, vừa là chứng từ xác thực quyền sở hữu đối với hàng hoá. Chứng từ vận tải thường có những nội dung như tên tàu, số vận đơn, ngày phát hành vận đơn...
(6) Phiếu đóng gói (Packing list): nội dung của chứng từ này thường mô tả chi tiết về chuyến hàng đã giao như số Container, trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì, ...
(7) Các chứng từ khác: như phiếu khử trùng, kiểm định thực vật, giấy chứng nhận chất lượng, số lượng...
Việc lập được một bộ chứng từ hoàn hảo (sạch) theo thư tín dụng phải theo một chuẩn mực quốc tế và thực tiễn thực hành được các nước tham gia công nhận. Phòng Thương mại quốc tế (International Charmber of Commerce – ICC) đã xuất bản cuốn: “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” (Uniform Customs and Practice for Documentary Credits - UCP), ấn bản đầu tiên năm 1933. Văn bản này mang tính chất pháp lý tuỳ ý, nghĩa là khi áp dụng nó các bên đương sự phải thoả thuận ghi vào trong thư tín dụng, đồng thời có thể thoả thuận khác miễn là có dẫn chiếu. Đến nay, trải qua quãng thời gian dài áp dụng, những điều lệ trên đã nhiều lần được chỉnh sửa, bổ sung để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và ấn phẩm hiện đang được sử dụng rộng rãi là UCP số xuất bản 500 bản sửa đổi năm 1993, và thường được viết tắt là UCP 500. Hiện nay ấn bản này cũng lại đang được nghiên cứu sửa đổi và bản UCP600 sẽ được xuất bản trong tương lai gần.
1.2.4 Đặc điểm của thư tín dụng và vai trò của Ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện thanh toán theo thư tín dụng
a) Thư tín dụng có những đặc điểm sau:
Một là: thư tín dụng hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán, nhưng sau khi ra đời lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Người mua căn cứ vào hợp đồng để làm đơn yêu cầu mở Thư tín dụng. Người bán căn cứ vào các điều kiện của Thư tín dụng tiến hành giao hàng và nếu xuất trình được các chứng từ có phù hợp với hợp đồng hay không không phải là trách nhiệm của ngân hàng và không ảnh hưởng đến trách nhiệm thanh toán của ngân hàng. Tính độc lập của Thư tín dụng không huỷ bỏ trách nhiệm của ngân hàng phát hành khi hợp đồng mua bán đã được huỷ bỏ nhưng Thư tín dụng vẫn còn hiệu lực. Do đó người bán khi nhận được Thư tín dụng phải kiểm tra kỹ các điều khoản của Thư tín dụng, nếu có điều khoản nào chưa phù hợp phải yêu cầu người mua tiến hành sửa đổi Thư tín dụng cho phù hợp trước khi thực hiện giao hàng.
Hai là: trong nghiệp vụ tín dụng chứng từ, các ngân hàng chỉ giao dịch căn cứ vào chứng từ, chứ không liên quan đến hàng hoá. Ngân hàng cam kết thanh toán cho người hưởng khi họ xuất trình được bộ chứng từ mà thể hiện trên bề mặt là phù hợp với các điều khoản của Thư tín dụng mà hoàn toàn không phụ thuộc vào việc người mua đã nhận được hàng hoá hay chưa, hàng hoá có đúng quy cách hay không. Do đó, quyền lợi của người bán sẽ được đảm bảo nếu họ xuất trình được bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều khoản, điều kiện của thư tín dụng.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - 1
- Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - 2
- Quy Trình Thanh Toán Theo Phương Thức Tín Dụng Chứng Từ
- Thực Trạng Áp Dụng Phương Thức Tín Dụng Chứng Từ Trong Thanh Toán Quốc Tế Tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
- Quy Trình Thanh Toán Quốc Tế Theo Phương Thức Tín Dụng Chứng Từ Của Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
- Tình Hình Mở L/c Nhập Khẩu Giai Đoạn 2003-2005
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
b) Vai trò của ngân hàng trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng chứng từ.
Đối với nhà nhập khẩu:
Khi nhà nhập khẩu chưa có uy tín với nhà xuất khẩu, nhà xuất khẩu chắc chắn không muốn giao hàng trước khi nhận được tiền. Ngược lại, nhà nhập khẩu khi chưa nhận được hàng cũng không hề muốn trả tiền trước, một mặt sẽ có
rủi ro nếu nhà xuất khẩu không giao được hàng, mặt khác vốn sẽ bị chiếm dụng trong một thời gian dài, nhất là những hàng mà nhà xuất khẩu phải sản xuất rồi mới giao được hàng. Sử dụng phương thức thanh toán quốc tế là tín dụng chứng từ sẽ giải quyết được mâu thuẫn đó. Ngân hàng, bằng uy tín của mình sẽ đứng ra cam kết thanh toán. Nhà nhập khẩu sẽ được tư vấn về những điều khoản trong hợp đồng để xây dựng một Thư tín dụng chặt chẽ, có lợi cho nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu cũng kiểm soát được hàng hoá thông qua việc nhà xuất khẩu sẽ phải xuất trình những chứng từ chứng nhận xuất xứ, kiểm định chất lượng do những cơ quan kiểm định độc lập phát hành. Ngân hàng sẽ kiểm tra bộ chứng từ đó có phù hợp với thông lệ quốc tế và luật pháp của từng nước hay không, việc kiểm tra này đòi hỏi kinh nghiệm và sự chuyên nghiệp cao. Ngoài ra, nếu nhà nhập khẩu đã có uy tín với ngân hàng thì thường các ngân hàng sẽ cấp một hạn mức miễn ký quỹ mở Thư tín dụng cho khách hàng. Đây là một trong những ưu việt chỉ có được khi áp dụng phương thức tín dụng chứng từ. Nhà nhập khẩu bằng việc tận dụng uy tín của ngân hàng đã tránh được việc ứ đọng vốn.
Đối với nhà xuất khẩu:
Chính từ đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ là ngân hàng chỉ làm việc dựa trên chứng từ, nên khi nhà xuất khẩu đã giao hàng và tập hợp được bộ chứng từ hoàn hảo, việc được thanh toán là chắc chắn. Dù trên đường hàng hoá có gặp rủi ro thì việc hai bên giải quyết với bên bảo hiểm cũng không ảnh hưởng tới việc ngân hàng phát hành phải thanh toán. Hoặc nhà nhập khẩu gặp rủi ro, mất khả năng thanh toán, nhà xuất khẩu vẫn chắc chắn nhận được tiền của ngân hàng. Như vậy tất cả chỉ phụ thuộc vào việc nhà xuất khẩu có xuất trình được bộ chứng từ có hoàn hảo hay không, điều này nhà xuất khẩu sẽ được ngân hàng phục vụ mình tư vấn. Ngoài ra, nhà xuất khẩu còn tránh được rủi ro về quản lý ngoại hối của nước người nhập khẩu, vì khi Thư tín dụng đã
được mở thì người nhập khẩu đã phải có giấy phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của cơ quan quản lý ngoại hối. Đối với những phương thức khác như chuyển tiền (sau khi nhận hàng) hay nhờ thu, tại thời điểm thanh toán nếu nước người nhập khẩu có sự thay đổi về quản lý ngoại hối liên quan đến ngoại tệ hai bên đã thoả thuận thì rủi ro này hoàn toàn thuộc về nhà xuất khẩu. Khi đã có được bộ chứng từ, nhà xuất khẩu còn có thể để nghị ngân hàng phục vụ mình chiết khấu (đối với bộ chứng từ trả ngay) hay bán trước hạn các hối phiếu đã được chấp nhận (đối với bộ chứng từ trả chậm), do đó có thể nhanh chóng thu hồi vốn tái đầu tư.
Tóm lại, lợi ích lớn nhất của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là thông qua đó có thể đạt tới sự thoả thuận chấp nhận được giữa những lợi ích đối kháng của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu thông qua việc làm cho thời gian trả tiền phù hợp với thời hạn giao hàng. Ta cũng đã biết dịch vụ này mang lại rất nhiều lợi ích cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng cũng phải hết sức thận trọng khi thực hiện phương thức thanh toán này do có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới nó, có thể tạo thuận lợi mà cũng có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.3.1 Các nhân tố bên trong ngân hàng
Đây là những nhân tố nội tại của mỗi ngân hàng thương mại, nó có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả áp dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế.
Nhân tố đầu tiên phải kể đến là mô hình tổ chức quản lý điều hành hoạt động thanh toán quốc tế nói chung. Một hệ thống quản lý điều hành thống nhất từ trung ương đến chi nhánh theo một quy trình cụ thể, gọn nhẹ, giao quyền chủ động cho chi nhánh sẽ tiết kiện được chi phí, thời gian thanh toán nhanh
chóng và an toàn, đó là tác nhân thu hut khách hàng đến với ngân hàng nhiều hơn vì quyền lợi của họ được đảm bảo.
Nhân tố thứ hai là uy tín và tiềm lực tài chính của Ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế. Lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh tiền tệ đặc biệt và nhạy cảm, uy tín và tiềm lực tài chính sẽ tạo được lòng tin với khách hàng, thu hút được khách hàng tới với ngân hàng, từ đó lại càng củng cố cho uy tín và tiềm lực của ngân hàng. Đặc biệt với phương thức tín dụng chứng từ, uy tín của ngân hàng càng đóng vai trò quan trọng. Thư tín dụng là một cam kết của ngân hàng phát hành cung cấp cho người hưởng, do đó uy tín của ngân hàng sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện của thư tín dụng. Một thư tín dụng do một ngân hàng uy tín phát hành sẽ dễ dàng được người hưởng chấp nhận, không đòi hỏi sự xác nhận của ngân hàng thứ hai, giảm các chi phí không cần thiết cho người nhập khẩu và người xuất khẩu, gây lòng tin cho khách hang, từ đó sẽ thu hút được nhiều hơn khách hàng đến với ngân hàng, phát triển được các hoạt động của ngân hàng nói chung cũng như phương thức thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng. Uy tín của ngân hàng được đánh giá qua các chỉ tiêu như khả năng thanh toán, kỹ thuật xử lý nghiệp vụ, quy mô của nguồn vốn huy động và cho vay, khả năng đáp ứng các phương tiện thanh toán, sự đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng.
Mạng lưới ngân hàng đại lý cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới nghiệp vụ tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại. Các thư tín dụng mở ra được truyền từ ngân hàng mở đến ngân hàng thông báo đều phải thông qua mạng SWIFT và giữa hai ngân hàng phải có trao đổi mã khóa SWIFT để đảm bảo tính chân thực của thư tín dụng. Nếu giữa hai ngân hàng không có trao đổi mã khóa SWIFT thì sẽ phải thông qua ngân hàng trung gian. Như vậy rõ ràng với những ngân hàng mở thư tín dụng có hệ thống ngân hàng đại lý rộng thì thư
tín dụng mở ra sẽ tới tay người hưởng nhanh hơn, giảm được chi phí trung gian. Mặt khác khi thanh toán thư tín dụng, nếu ngân hàng chiết khấu có mạng lưới ngân hàng đại lý rộng sẽ đảm bảo nhận được tiền từ ngân hàng mở thư tín dụng mà không phải qua nhiều ngân hàng trung gian, vừa tiết kiệm phí chuyển tiền, vừa tiết kiệm thời gian. Thông qua quan hệ với các ngân hàng đại lý, ngân hàng có thể khai thác được các nguồn tài trợ không nhỏ, các hạn mức tín dụng, tạo vốn đáp ứng nhu cầu cho khách hàng nhập khẩu. Cũng thông qua hoạt động của các ngân hàng đại lý, ngân hàng còn có thể khai thác thông tin liên quan đến tình hình tài chính của các đối tác nước ngoài, hỗ trợ cho các khách hàng nội địa. Ngoài ra, mạng lưới ngân hàng đại lý rộng lớn sẽ củng cố uy tín của ngân hàng đó trên thị trường trong nước và quốc tế, tạo lòng tin cho khách hàng khi đến với ngân hàng.
Một nhân tố nữa cũng ảnh hưởng lớn tới nghiệp vụ thanh toán quốc tế nói chung và nghiệp vụ tín dụng chứng từ nói riêng là công nghệ ngân hàng. Ngày nay, hoạt động ngân hàng luôn đòi hỏi phải nhanh chóng, chính xác, tiện lợi, vì vậy sự hỗ trợ của công nghệ thông tin là hết sức quan trọng. Công nghệ ngân hàng liên quan đến toàn bộ cơ sở vật chất và mạng lưới truyền thông, thanh toán. Hệ thống mạng máy tính và các chương trình ứng dụng của nó có liên quan chặt chẽ đến chất lượng hoạt động thanh toán và phương thức tín dụng chứng từ. Hệ thống công nghệ thanh toán hiện đại sẽ giúp cho việc thanh toán qua ngân hàng được thực hiện trôi chảy và nhanh chóng, đảm bảo an toàn và tiết kiệm chi phí. Việc nối mạng thông tin cũng giúp cho ngân hàng quảng bá hoạt động và các sản phẩm dịch vụ của mình tới khách hàng, thu hút thêm nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
Nhân tố ảnh hưởng tiếp theo là chất lượng các hoạt động liên quan. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một trong những phương thức thanh toán quốc tế, là khâu cuối cùng của quá trình mua bán trong ngoại thương. Để
khâu cuối cùng này diễn ra được suôn sẻ thì các khâu đầu phải trôi chảy. Một khách hàng muốn mở thư tín dụng nhập khẩu sẽ có thể được ngân hàng cấp tín dụng, bán ngoại tệ để ký quỹ hay thanh toán và được ngân hàng đứng ra bảo lãnh khi cần thiết. Ngược lại khách hàng xuất khẩu lại muốn được ngân hàng tài trợ thông qua việc chiết khấu bộ chứng từ hoặc cho vay ứng trước, nên một trong những khâu này ách tắc sẽ dẫn đến cả quá trình cùng ách tắc và không thể thực hiện được việc thanh toán. Do vậy sự phối kết hợp đồng bộ giữa các hoạt động liên quan là nhân tố quan trọng góp phần phát triển phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Nhân tố cuối cùng nhưng lại là nhân tố quyết định ảnh hưởng tới nghiệp vụ tín dụng chứng từ là trình độ của cán bộ ngân hàng. Trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, những kinh nghiệm thực tiễn và thái độ tiếp khách của cán bộ thanh toán quốc tế sẽ góp phần thu hút khách tới ngân hàng, nâng cao chất lượng hoạt động, giảm thiểu rủi ro xảy ra. So với các phương thức thanh toán quốc tế khác, phương thức tín dụng chứng từ phức tạp hơn, đòi hỏi cán bộ nghiệp vụ phải có một trình độ nhất định. Do vậy, để phát triển phương thức tín dụng chứng từ, trình độ cán bộ phải không ngừng được nâng cao về chuyên môn, ngoại ngữ cũng như kiến thức về pháp luật, thông lệ quốc tế để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Khi khách hàng đã được phục vụ niềm nở với trình độ chuyên môn cao, đáp ứng mọi nhu cầu phức tạp nhất, họ sẽ cảm thấy hài lòng và chọn ngân hàng làm nơi giao dịch. Ngoài việc hướng dẫn khách hàng mọi thủ tục, cách thức thanh toán, cán bộ thanh toán quốc tế còn phải làm nhiệm vụ tư vấn hướng dẫn khách hàng ký kết hợp đồng có được những điều khoản có lợi cho mình, lựa chọn các hình thức thanh toán phù hợp, hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất, tạo cho khách hàng thực sự tin tưởng, an tâm. Mặt khác trình độ cán bộ thanh toán quốc tế vững sẽ xử lý các
kỹ thuật nghiệp vụ một cách chính xác, hạn chế rủi ro cho ngân hàng, nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng chứng từ.
Trên đây là những nhân tố bên trong ngân hàng ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Ngân hàng thương mại. Ngoài ra, các nhân tố bên ngoài ngân hàng cũng có ảnh hưởng không nhỏ đòi hỏi ngân hàng phải nắm bắt, thích nghi và vận dụng linh hoạt.
1.3.2 Các nhân tố bên ngoài ngân hàng
Thứ nhất là các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Mặc dù toàn cầu hoá đang làm cho các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần nhau hơn, nhưng giữa các quốc gia vẫn tồn tại những khác biệt. Môi trường kinh doanh trong nước gồm tất cả các yếu tố như chính trị, văn hóa, luật pháp, sự phát triển kinh tế, sự cạnh tranh... Những nhân tố này vừa có tác động tới các doanh nghiệp – khách hàng của ngân hàng và tới cả bản thân ngân hàng. Phải kể đến hàng đầu là chính sách kinh tế đối ngoại. Hoạt động thanh toán quốc tế nói chung trong đó phương thức tín dụng chứng từ nói riêng sôi động hay trầm lắng phụ thuộc nhiều vào chính sách đối ngoại của quốc gia. Việc đưa ra các định hướng mang tính chiến lược là bảo hộ mậu dịch hay tự do hoá mậu dịch có ảnh hưởng rất lớn tới hành vi của các doanh nghiệp. ở nước ta, việc đổi mới tư duy về kinh tế đối ngoại, thực hiện nền kinh tế mở đã thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những thành tựu to lớn. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng lên không ngừng, khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu được mở rộng sang những thị trường mới như Mỹ, EU... Hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp phát triển đòi hỏi sự phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng mà trong đó có phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức chủ yếu.