Quy Trình Chính Sách Và Giám Sát Thực Hiện Chính Sách


nghiệp của trường. Tỷ lệ giảng viên tuyển dụng là sinh viên tốt nghiệp các trường đại học khác là rất nhỏ. Cách tuyển dụng này có ưu điểm là đơn vị tuyển dụng (khoa hoặc bộ môn) biết được quá trình của người giảng viên mới, đồng thời người được tuyển dụng am hiểu cách học, cách dạy, truyền thống, chương trình cũng như bộ máy của trường đại học. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của việc tuyển giảng viên từ những sinh viên tốt nghiệp của chính nhà trường là cản trở môi trường nghiên cứu năng động của họ. Hơn nữa, trên thực tế, một sinh viên giỏi không nhất thiết sẽ là một giảng viên giỏi hay một cán bộ nghiên cứu xuất sắc.


2.2.2.3. Công tác tổ chức quản lý


Thứ nhất, công tác quản lý vĩ mô còn chậm được đổi mới.


- Trong xây dựng chính sách quản lý, hoạt động xây dựng chính sách và văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách còn chậm; đồng thời thiếu những tiêu chí, nội dung quy định về công tác thẩm định và thẩm quyền ban hành chính sách. Hầu hết các cơ sở đào tạo chưa được phân quyền, cung cấp thông tin, trang bị kiến thức, kỹ năng làm chính sách. Vì vậy, phần lớn các cơ sở đào tạo đứng ngoài quy trình chính sách và chỉ thuần túy là những đối tác thụ động trong việc thực thi chính sách.


- Đội ngũ xây dựng và chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển GDĐH trong tiến trình đổi mới GDĐH phần lớn từ thời kỳ bao cấp chuyển qua và việc xây dựng chính sách dựa chủ yếu vào kinh nghiệm (phần lớn những người này trưởng thành từ thực tế và khoảng 95% chưa qua trường lớp đào tạo). Số lượng cán bộ làm chính sách thiếu về số lượng, cơ cấu; nhất là về chất lượng và hiệu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.


quả công tác chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi ngày càng cao của tiến trình đổi mới GDĐH trong giai đoạn mới. Cơ chế tuyển dụng, bố trí, sử dụng, đãi ngộ, đánh giá, sàng lọc và chế độ chính sách đối với đội ngũ xây dựng và chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển GDĐH vẫn theo nề nếp cũ nên còn nhiều bất hợp lý, chưa tạo được động lực đủ mạnh để phát huy phẩm chất và năng lực của đội ngũ, nâng cao hiệu quả sử dụng, khắc phục hạn chế, yếu kém.

Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 21


- Nhận thức và chỉ đạo của lãnh đạo các cấp trong công tác phát triển đội ngũ chuyên gia làm chính sách phát triển GDĐH chưa có chuyển biến kịp thời. Những chậm trễ trong việc cải cách hành chính nhà nước, trong việc đổi mới quản lý nhân sự, chính sách tiền lương đã gây cản trở không nhỏ trong việc tạo ra sức thu hút đối với đội ngũ làm chính sách phát triển GDĐH có tính chuyên nghiệp dẫn đến tình trạng thiếu hụt đội ngũ những nhà hoạch định chính sách phát triển GDĐH có kinh nghiệm và được đào tạo chính quy.


- Một bộ phận những người làm chính sách thường nghĩ đến lợi ích cục bộ của đơn vị mà ít chú trọng đến lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân để xây dựng chính sách. Các cấp phê duyệt chính sách quan tâm chưa thoả đáng đối với những tác động của các chính sách sẽ được ban hành đối với kinh tế, xã hội. Công tác nghiên cứu, đánh giá dự báo tác động, áp dụng thử nghiệm, rút kinh nghiệm chưa được các nhà hoạch định chính sách quan tâm do thiếu nguồn nhân lực có trình độ và kinh phí nghiên cứu. Nhiều người được cử tham gia tọa đàm, đối thoại chính sách không thuộc thẩm quyền xây dựng và chỉ đạo thực hiện chính sách nên họ chưa phản ánh được tiếng nói của cộng đồng lên các cấp chính sách. Trong nhiều cuộc hội thảo, tập huấn theo chuyên đề hay thảo luận chính sách, một số cán bộ được cử tham gia chưa thực sự nhiệt tình đóng góp ý kiến


hoặc ý kiến nêu còn dè dặt; bỏ dở giữa chừng...Quỹ thời gian của các cán bộ được cử tham gia hoạch định hoặc thảo luận chính sách phát triển GDĐH bị hạn chế. Sự hiểu biết của những người tham gia thảo luận chính sách phát triển GDĐH chưa toàn diện và thường có tính bảo thủ cao. Những vấn đề đưa ra tọa đàm phát hiện ở các cuộc hội thảo chính sách phát triển GDĐH khá giống nhau hoặc lặp đi lặp lại.


Thứ hai, các trường đại học, cao đẳng vẫn còn bị động trong hoạt động, điều hành.


- Mặc dù được cam kết mở rộng quyền tự chủ nhiều hơn, các trường đại học và cao đẳng bị kiểm soát ngày càng chặt chẽ hơn. Trường đại học và cao đẳng, kể cả công lập hay tư thục vẫn phải tuân thủ sự hướng dẫn của Bộ về tuyển sinh, thiết kế chương trình, tổ chức dạy và học. Các trường đại học và cao đẳng tư thục phải xin phê duyệt công nhận hội đồng quản trị và hiệu trưởng. Cơ quan kiểm định chất lượng đào tạo được giao chức năng quản lý nhà nước và đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các trường chịu sự thanh tra thường xuyên và bất thường của Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc một cơ quan đại diện cho Bộ tại địa phương. Tất cả những điều này đang làm chậm lại quá trình hình thành cơ chế quản lý và quản trị đại học có định hướng thị trường, hoặc làm khó khăn cho việc điều chỉnh kịp thời các chương trình đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Sự kiểm soát chặt chẽ của trung ương còn làm hạn chế cơ hội tiếp cận giáo dục đại học của người học, đồng thời tạo ra những khó khăn, rào cản trong việc xác định các mục tiêu ưu tiên trong lựa chọn chính sách phát triển. Ngoài ra, cách thức tuyển sinh và cấp phát kinh phí như hiện nay


làm triệt tiêu sự cạnh tranh về chất lượng đào tạo. Các trường có chương trình lạc hậu, ít chú ý hoặc không chú ý đến chất lượng đào tạo vẫn có thể tồn tại.


Hiệu trưởng trường đại học, cao đẳng có ít quyền kiểm soát về chương trình và phương pháp đào tạo. Trách nhiệm xã hội của cơ sở đào tạo chưa trở thành điều kiện bắt buộc thực hiện do hệ thống thể chế lỏng lẻo và thiếu các quy định pháp lý. Điều lệ trường đại học ban hành năm 2003 quy định các trường phải thiết lập hội đồng trường, nhưng cho đến nay, số trường đã có hội đồng trường là rất ít hoặc có nhưng hoạt đông không đúng với vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Hiện nay chỉ có một số ít các trường đại học có năng lực thực hiện được các nguyên tắc quản trị riêng vì thiếu các nhà quản lý có khả năng thực hiện những nhiệm vụ, có năng lực phân tích chuyên môn các vấn đề quản lý giáo dục đại học và quản trị trường đại học.


2.2.2.4. Quy trình chính sách và giám sát thực hiện chính sách


Chính sách phát triển GDĐH hiện nay hầu hết là loại chính sách thụ động và mang tính thủ tục, áp dụng trong khu vực công nên quy trình chính sách phát triển GDĐH thường bắt đầu từ ý đồ mong muốn của nhà quản lý hơn là phân tích, đánh giá về nhu cầu và mục đích, bối cảnh kinh tế-xã hội, các điều kiện và nguồn lực, các tác động và hệ quả có thể xảy ra, những dự báo định tính và định lượng v.v…của một loại vấn đề nào đó mong muốn đưa vào áp dụng để phát triển GDĐH. Việc soạn thảo chính sách thường do cơ quan quản lý chuyên trách thuộc Chính phủ (Bộ Giáo dục và Đào tạo) thực hiện để lấy ý kiến chuyên gia. Về nguyên tắc, việc lấy ý kiến chuyên gia thường thông qua các cuộc hội thảo hoặc trưng cầu ý kiến thẩm định bằng văn bản của các cơ quan chức năng liên


quan (Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính, Bộ Nội vụ…). Tuy nhiên, mức độ tiếp thu ý kiến của chuyên gia bị chi phối bởi mục tiêu và lợi ích của cơ quan đề xuất chính sách. Có thể lấy quy trình xây dựng Luật Giáo dục là một ví dụ. Rất nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng Luật Giáo dục năm 2005 cần phải bổ sung nhiều điều khoản khung định hướng cho những vấn đề rất gay cấn như chương trình trong giáo dục phổ thông, quản trị và tài chính trong giáo dục đại học, toàn cầu hoá trong giáo dục ... và cũng cần lược bớt đi khá nhiều điều khoản quá chi tiết như chương trình khung, tên gọi các loại bằng cấp theo từng nhóm ngành nghề (chỉ nên quy định những điều này trong văn bản dưới luật) nhưng chưa được tiếp thu, sửa đổi. Thêm nữa, các văn bản dự thảo chính sách chưa có những phương án khác nhau với cách đánh giá, so sánh của từng phương án, các ý kiến góp ý của các bên có liên quan, các tầng lớp xã hội và các kế hoạch thực thi chi tiết trước khi trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Vì vậy, một số chính sách như tuyển sinh "3 chung" hay cơ chế điểm sàn còn bất hợp lý, hiệu quả chưa cao.


Việc thực hiện và theo dõi việc thực hiện chính sách, điều chỉnh và bổ sung chính sách, đề ra chính sách hay giải pháp mới theo sự xuất hiện các yếu tố phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách và đánh giá kết quả chính sách cũng có nhiều hạn chế. Cũng tại Luật Giáo dục năm 2005, nhà nước giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho trường trung cấp, cao đẳng và đại học một loạt vấn đề, đặc biệt là việc xây dựng chỉ tiêu, tổ chức tuyển sinh, tổ chức đào tạo công nhận tốt nghiệp và cấp văn bằng…nhưng việc thực hiện hiện nay ra sao thì chưa có cơ quan giám sát, đánh giá cụ thể.


Theo điều lệ trường đại học ban hành năm 2003 thì Hội đồng trường/Hội đồng quản trị là cơ quan quyền lực cao nhất, nơi quyết nghị, giám sát các chính sách và chủ trương lớn của nhà nước và của nhà trường do ban giám hiệu nhà trường tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, ở Việt Nam rất ít trường đại học thành lập được Hội đồng trường theo đúng nghĩa vì thành viên của Hội đồng trường vừa là hiệu trưởng vừa là Bí thư Đảng ủy, trong khi cơ chế hoạt động của Hội đồng trường và Đảng ủy có nhiều điểm trùng lắp nhau. Trong khi Đảng ủy lại không chịu trách nhiệm đối với những quyết định/định hướng của mình mà người chịu trách nhiệm chính là hiệu trưởng và Hội đồng trường (nếu có).


2.2.2.5. Hợp tác quốc tế giáo dục đại học chưa đáp ứng yêu cầu của phát triển giáo dục đại học trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế thế giới


Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc mở rộng hợp tác quốc tế để thúc đẩy quá trình hội nhập, nhưng hợp tác quốc tế của GDĐH Việt Nam đang ở trong giai đoạn mở đầu và mới chỉ tập trung chủ yếu vào việc cải thiện điều kiện cơ sở vật chất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, máy móc và cử người đi học, mời chuyên gia vào tập huấn nâng cao trình độ. Các chương trình đào tạo mang tính quốc tế và được giảng dạy bằng tiếng Anh ở các trường đại học Việt Nam chưa nhiều, làm hạn chế việc thu hút lưu học sinh nước ngoài đến học tại Việt Nam. Nhiều đề án hợp tác quốc tế quá thiên về xây dựng cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm đến mức không có người có trình độ kỹ thuật, ngoại ngữ và chuyên môn để sử và khai thác hết tính năng, tác dụng của các máy móc hiện đại này, bảo quản, duy tu và vận hành có hiệu quả các phòng thí nghiệm tiên


tiến. Chưa có nhiều trường mạnh dạn cải tiến chương trình đào tạo theo hướng quốc tế (dùng tài liệu giáo khoa quốc tế, áp dụng hình thức đào tạo theo tín chỉ, linh hoạt trong việc bố trí chương trình với khối lượng môn học tự chọn tăng lên, lấy sinh viên làm trung tâm của quá trình dạy và học, đổi mới phương pháp giảng dạy).


Việc mở rộng hợp tác quốc tế đang làm xuất hiện những dấu hiệu của tình trạng chảy máu chất xám không chỉ các trường đại học mà cả các trường phổ thông. Số sinh viên Việt Nam chọn sống và học tập ở nước ngoài tăng nhanh. Xét trên tất cả các phương diện, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình quốc tế hoá hệ thống GDĐH. Đặc biệt, đó là việc thiết lập một hệ thống GDĐH hiện đại với các đặc điểm Việt Nam. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào các thay đổi về thái độ và giá trị. Điều này đòi hỏi trong hình thành chính sách phát triển, việc cải thiện danh tiếng quốc tế của GDĐH Việt Nam phải trở thành mục đích tối thượng.


Thách thức lớn nhất trong quá trình đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế của GDĐH Việt Nam là tư duy về phát triển GDĐH chưa được đổi mới một cách triệt để, đồng bộ và mang tính chiến lược tổng thể. Từng thành viên của hệ thống đều cố gắng đổi mới trong sự phối kết lỏng lẻo và rời rạc của hệ thống. Cản trở lớn nhất là sự không rõ ràng về quan hệ sở hữu, quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia hệ thống GDĐH. Thách đố nổi bật là nhận thức để điều hoà các tác động của cơ chế thị trường với các tác động bù đắp của hệ thống chính trị, kinh tế và văn hoá. Chưa có sự nhận dạng rõ ràng về qui luật hoạt động và tác dụng các mối liên kết giữa 4 thành tố của cơ chế vận hành GDĐH trong nền kinh


tế thị trường, đó là: sự quản lý nhà nước, sự tham gia của xã hội, nhà trường và thị trường.


Các nghiên cứu về chiến lược phát triển GDĐH dưới góc độ kinh tế giáo dục còn thiếu và yếu, và nhiều khi phải né tránh không dám coi sản phẩm GDĐH là một loại dịch vụ hàng hoá công cộng đặc biệt, trong khi điều này là một tồn tại khách quan trong lý luận khoa học kinh tế giáo dục và trong thực tiện vận hành của GDĐH ở khu vực và trên thế giới. Nhiều khái niệm, giá trị kinh tế, văn hoá và xã hội qui chiếu chưa thống nhất trong vận hành GDĐH cần phải đánh giá lại. Phải rà soát và định nghĩa lại việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học, quản lý đào tạo, tài chính trong tư duy truyền thống mà chúng ta quá quen thuộc từ nhiều năm truớc.


TIỂU KẾT CHƯƠNG II


Từ khi đất nước cải cách và mở cửa ra thế giới bên ngoài (năm 1986), Đảng và Nhà nước rất coi trọng giáo dục và đào tạo, đặc biệt GDĐH để đào tạo nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và hiện đại hoá quốc gia. Thực hiện nhiệm vụ chiến lược đó, trong từng giai đoạn của quá trình đổi mới, một số chủ trương, chính sách và biện pháp phát triển GDĐH đã được triển khai áp dụng. Nhờ đó, GDĐH nước ta đang thực hiện một cuộc tái cấu trúc sâu rộng nhất và lớn nhất kể từ sau năm 1954. Nó đang chuyển từ hệ thống GDĐH tập trung mà ở đó chính phủ trung ương đưa ra các quyết định là chính, sang một hệ thống GDĐH phi tập trung để tăng cường tính hiệu quả, bằng cách trao nhiều trách nhiệm và quyền tự chủ hơn nữa cho các cơ sở cung ứng các dịch vụ GDĐH. Cơ cấu tổ chức của các

Xem tất cả 251 trang.

Ngày đăng: 13/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí