Đánh Giá Quá Trình Triển Khai Thực Hiện Kế Hoạch Chiến Lược


ứng của Công ty về cơ bản chưa được hình thành trên cơ sở tư duy chiến lược, chủ yếu dựa vào sự nhạy cảm trực giác của người lãnh đạo. Các yếu tố của kế hoạch chiến lược được hình thành như một sản phẩm phản xạ có điều kiện khi va chạm với thực tế môi trường kinh doanh. Có thể nói đây là hạn chế lớn nhất của Công ty trong quá trình xây dựng chiến lược. Hạn chế này được thể hiện khá rõ trong công tác marketing. Hệ thống các mục tiêu của doanh nghiệp tuy đã xác định được nhưng chưa được hoàn thiện đầy đủ, chưa thể hiện được khát vọng của Công ty. Mục tiêu tăng trưởng có đề cập đến nhưng chưa được chú trọng thực hiện; mặt khác mục tiêu đảm bảo duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng vẫn chưa được đặt ra.

Công tác marketing kém

Hiện nay, công tác marketing của Công ty chưa được xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của nó đối với doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, vì thế chưa phát huy được thế mạnh và năng lực sở trường của Công ty. Nguyên nhân một phần là do trình độ của cán bộ làm công tác marketing còn hạn chế, Công ty chưa xác định cho mình một phương pháp khoa học khi làm marketing.

Các quyết định hình thành chiến lược mang tính mờ nhạt

Việc hình thành các quyết định có tính chiến lược còn mờ nhạt, chưa thực sự căn cứ vào kết quả phân tích môi trường. Môi trường vĩ mô chưa được đề cập một cách đầy đủ, các yếu tố như công nghệ, môi trường tự nhiên, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất chưa được đề cập đến. Môi trường nội bộ trong doanh nghiệp cũng không được phân tích một cách đầy đủ. Công ty chưa đi sâu phân tích khả năng tài chính, tổ chức, cạnh tranh để thấy được điểm mạnh và điểm yếu của mình.

Chưa đề ra được các chiến lược dự phòng

Bản kế hoạch chiến lược của Công ty còn chưa đề ra được các chiến lược dự phòng trong các tình huống diễn biến theo thị trường. Đặc biệt là


trong tình hình khủng hoảng kinh tế như hiện nay. Điều này được giải thích là do việc tổ chức thu thập xử lý thông tin môi trường kinh doanh còn hạn chế, đánh giá các điều kiện môi trường ở trạng thái tĩnh, tính chính xác dự báo còn thấp.

3.2. Đánh giá quá trình triển khai thực hiện kế hoạch chiến lược

3.2.1. Ưu điểm

Xác định được các mục tiêu cụ thể

Công ty đã xác định được các mục tiêu cụ thể và xây dựng được các kế hoạch bộ phận nằm trong chiến lược tổng thể. Việc xác định được các mục tiêu cụ thể như là một động lực giúp cho mọi thành viên trong Công ty thấu hiểu và cam kết thực hiện, phát huy được hết những phẩm chất và năng lực cá nhân của mình để hoàn thành các mục tiêu nhằm mục đích phục vụ cho lợi ích của Công ty. Việc xây dựng được các chiến lược bộ phận sẽ giúp cho Ban lãnh đạo Công ty biết những vấn đề mà họ cần đặc biệt quan tâm để dẫn dắt doanh nghiệp hoàn thành được các kế hoạch chiến lược đề ra, những vấn đề cần quan tâm chính ở đây là:

- Quan tâm đến tăng cường sức cạnh tranh của Công ty thông qua đổi mới cơ sở vật chất.

- Đầu tư vào phát triển đội tàu, đổi mới công nghệ, tăng năng lực cạnh tranh.

- Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật, tay nghề cao, đáp ứng được nhu cầu chất lượng lao động trong thời đại mới.

- Quan tâm tới tăng năng suất lao động nhờ vào cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân.

Xây dựng được hệ thống chính sách và kế hoạch hành động bổ trợ

Trong quá trình truyền đạt và tổ chức thực thi chiến lược, Công ty đã xây dựng được hệ thống thông tin quản lý trong nội bộ doanh nghiệp và hệ thống kiểm soát hữu hiệu trong việc theo dõi chặt chẽ tiến trình thực hiện kế


hoạch chiến lược. Bên cạnh đó, Công ty luôn nhận được sự phối hợp ăn ý, tạo điều kiện của các cơ quan như Hải quan, Bộ Công thương…giúp hoạt động kinh doanh thuận lợi và đạt hiệu quả cao.

Cải tiến quy trình và phổ biến kế hoạch chiến lược đến các phòng ban

Để truyền đạt và tổ chức thực hiện thành công kế hoạch đã được xây dựng, Công ty đã thực hiện các biện pháp như:

- Mục tiêu chiến lược và các kế hoạch triển khai thực hiện được phổ biến và quán triệt đến tất cả những nhân viên tham gia.

- Kế hoạch triển khai thực hiện được xác định rõ ràng, tiến hành các hình thức cam kết thực hiện kế hoạch chiến lược của toàn đội ngũ cán bộ nhân viên trong Công ty.

- Thu hút sự tham gia đầy đủ nhiệt tình của đông đảo đội ngũ cán bộ nhân viên, có các hình thức khuyến khích về vật chất lẫn tinh thần cho nhân viên.


3.2.2. Nhược điểm

Bên cạnh những thuận lợi thì trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch chiến lược, Công ty vẫn còn tồn tại những vấn đề sau:

Sự phân bổ các nguồn lực chưa được Ban lãnh đạo Công ty quan tâm đúng mức

Công ty chưa quan tâm đến sự phân bổ hợp lý và sử dụng nguồn lực, vốn, nhân lực, công nghệ một cách tối ưu để thực hiện mục tiêu cụ thể. Phân bổ nguồn lực là một hoạt động quản trị trung tâm trong tổ chức thực hiện kế hoạch, nhưng Ban lãnh đạo Công ty lại phân bổ các hoạt động của mình theo ý chủ quan của các nhà quản lý. Công ty cũng chưa xem xét lại định hướng tổng quát của việc phân bổ nguồn vốn, xem xét các khoản chi đã hợp lý chưa? Có thể giúp Công ty hoàn thành công việc mà kế hoạch chiến lược đặt ra chưa? Ví dụ như: chưa phân tích nhu cầu về vốn như vốn lưu động, hàng tồn


kho, nợ phải thu, xem xét vấn đề phân phối thu nhập, đồng thời lập ngân sách về vốn ; chưa phân tích cơ cấu tài chính của doanh nghiệp trong việc thực thi chiến lược của doanh nghiệp, cơ cấu tài chính có ảnh hưởng đến mức độ hấp dẫn và mức chi phí huy động nguồn vốn cho thực hiện chiến lược và sẽ ảnh hưởng tới mức lợi nhuận. Bởi vậy dẫn đến tình trạng là nhiều khi Ban lãnh đạo không có những quyết định dứt khoát trong việc huy động vốn để đầu tư.

Chưa xây dựng được cơ cấu tổ chức gắn với việc thực hiện kế hoạch chiến lược

Ban lãnh đạo Công ty chưa xây dựng được cơ cấu tổ chức gắn với việc thực hiện chiến lược, bởi vậy nên chưa phát huy được một cách triệt để năng lực của từng cá nhân, từng phòng ban. Chưa đưa ra được các kế hoạch hoạt động nhằm bổ sung hoặc dự phòng trong điều kiện môi trường kinh doanh thay đổi.

Chưa có sự phối hợp giữa các bộ phận trong Công ty

Do chưa nhận thức đúng đắn về hoạt động marketing nên các hoạt động này trong Công ty được thực hiện đơn lẻ, mang tính bột phát. Chưa có sự phối hợp giữa các bộ phận, do vậy hiệu quả từ công tác marketing còn chưa cao. Việc khai thác nguồn hàng và mở rộng thị trường vì thế không đạt được kết quả như mong muốn. Cụ thể là sự chậm trễ trong việc nắm bắt thông tin về các đối thủ cạnh tranh, quá trình nghiên cứu dự báo và phân tích về môi trường kinh doanh bên ngoài, các đối thủ cạnh tranh bên ngoài …Kết quả là Công ty nhiều khi phải chấp nhận với mức giá thấp hoặc nôn nóng tìm kiếm nên hạ giá cước dẫn đến thua lỗ.

3.3. Đánh giá hiệu quả của việc thực hiện kế hoạch chiến lược

3.3.1. Điểm mạnh

Chất lượng dịch vụ tương đối tốt, tạo được lòng tin nơi khách hàng, góp một phần đáng kể vào doanh thu của Công ty


NOSCO đã tham gia xuất khẩu dịch vụ vận tải biển (chở thuê cho nước ngoài). Hoạt động mang tính quốc tế hóa rất cao này đã chứng minh một phần trình độ, năng lực quản lý, điều hành của Công ty. Chất lượng sản phẩm dịch vụ vận tải biển của các Công ty đã được thị trường khu vực và quốc tế chấp nhận. Có được những thành tích này là do sự định hướng đúng đắn của Ban lãnh đạo Công ty vào đầu tư phát triển đội tàu, đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp, giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Riêng 6 tháng cuối năm 2008, do khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh đến kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty, nhất là 5 tháng cuối năm 2008 giá cước giảm mạnh, hàng hoá khan hiếm, cạnh tranh vận tải trên thị trường quốc tế rất khốc liệt do số lượng tàu đưa vào khai thác trên thị trường hàng hải vượt quá cầu. Trong bối cảnh đó, Hội đồng quản trị và Ban điều hành đã phải điều chỉnh kế hoạch năm 2008, thực hiện hàng loạt các biện pháp khắc phục sự suy giảm, nhằm duy trì sản xuất, bảo đảm tàu vẫn đủ hàng vận chuyển, kinh doanh vẫn có lãi (tuy có giảm mạnh).

Công ty đang tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các dịch vụ sau bán hàng, khai thác các nguồn hàng có lợi nhuận cao để nâng tỷ trọng doanh thu từ hoạt động này. Hiện nay, Công ty đang có một số hợp đồng sau:

- Hợp đồng thuê, mua bên ngoài, NOSCO có 10 hợp đồng lớn trong đó 06 hợp đồng sơn và mua nhiên liệu theo giá thị trường và số lượng thực nhận, có hai hợp đồng đóng tàu trị giá khoảng 446 tỷ đồng.

- Hợp đồng cung cấp dịch vụ: NOSCO có 15 hợp đồng với tổng trị giá khoảng 27,3 triệu USD tương đương 464 tỷ đồng.

Kết quả đạt được trong thời gian qua tuy còn khiêm tốn do chịu ảnh hưởng của yếu tố khách quan, nhưng nó đã mở đầu cho bước phát triển mới của Công ty, khi thương hiệu NOSCO đã được khẳng định trên thị trường vận


tải biển trong nước và quốc tế. Điều này minh chứng cho việc định hướng đầu tư phát triển đúng đắn của Ban lãnh đạo Công ty trong thời gian qua.

Năng lực vận tải đội tàu của Công ty ngày càng có tính cạnh tranh hơn

Thực hiện theo kế hoạch đầu tư phát triển đội tàu, Ban lãnh đạo Công ty đã tập trung mọi nguồn lực để đảm bảo thực hiện mục tiêu đề ra. Năm 2007, đội tàu Công ty mới chỉ có 7 tàu với tổng trọng tải 76.176 DWT, nhưng đến năm 2008, đội tàu của Công ty đã đạt 230.000 DWT, tăng gấp hơn 3 lần so với năm 2007 và Công ty đã hoàn thành việc tiếp nhận và đưa vào khai thác 04 tàu hàng khô với tổng trọng tải 153.060 DWT (không kể tàu Hồng Sơn 6.544 DWT mua tháng 6/2008 do hoạt động không hiệu quả nên được bán để mua tàu 26.384 DWT). Cụ thể: Tháng 5/2008 tiếp nhận tàu NOSCO Glory 68.591 DWT; tháng 9/2008 tiếp nhận tàu NOSCO Victory 45.585 DWT; tháng 10/2008 tiếp nhận tàu Hồng Lĩnh 12.500 DWT đóng mới tại Nhà máy Đóng tàu Hạ Long; tháng 11/2008 tiếp nhận tàu NOSCO Peace 26.384 DWT. Tất cả các tàu trên được đưa vào khai thác tuyến viễn dương góp phần tăng năng lực vận tải của Công ty lên một tầm cao mới.


Bảng 2.7: Đội tàu của NOSCO so với một số Công ty lớn trong nước



Tên Công ty

Số lượng Tàu

Tổng trọng

tải (DWT)

Trọng tải bình quân/Tàu (DWT/tàu)

Tuổi bình quân/Tàu (Tuổi)

VOSCO

26

408.355

15,706

16

VITRANSCHART

18

267.542

14,863

14

VINASHIP

17

150.531

8,855

21

VTB VINALINES

16

287.482

17,968

12

FALCON

13

473.901

36.454

25

NOSCO

11

230.000

20,910

13

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.


ĐÔNG ĐÔ

8

64.680

8,085

14

GEMADEPT

3

27.207

9.069

15

Nguồn: Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam

Hình 2.2: Biểu đồ năng lực vận tải khô của một số doanh nghiệp vận tải biển

Nguồn Báo cáo phân tích ngành vận tải biển Hiện nay số lượng đang khai 1

Nguồn: Báo cáo phân tích ngành vận tải biển

Hiện nay, số lượng đang khai thác của NOSCO là 11 tàu với tổng trọng tải 230.000 DWT, đứng thứ 6 trong các doanh nghiệp có quy mô lớn trong ngành vận tải. Tuy nhiên, năng lực vận tải hàng khô của đội tàu lại xếp ở vị trí thứ 4. Điều này là do Công ty đã đầu tư phát triển thêm các tàu mới với công nghệ hiện đại, đội tàu Công ty có tuổi tàu trung bình là 13, là một trong những đội tàu trẻ nhất Việt Nam, các thiết bị kỹ thuật hiện đại cộng thêm đội ngũ thuyền viên nhiều kinh nghiệm luôn là lợi thế để Công ty nâng cao năng lực vận tải của mình.

Đội ngũ thuyền viên chuyên nghiệp hơn


Nhằm đáp ứng sự phát triển bền vững, lâu dài của mình. Công ty thực hiện chính sách “chiêu hiền đãi sỹ”, chủ động cải thiện điều kiện lao động, chất lượng lao động. Công ty đã xây dựng và đào tạo được đội ngũ nhân viên đông đảo ở Công ty tại Hà Nội nói riêng và toàn bộ các chi nhánh nói chung, có kinh nghiệm trong lĩnh vực vận tải biển, trình độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động vận chuyển và giao nhận hàng hoá, từng bước đưa hoạt động vận tải tới trình độ hiện đại. Do vậy, từ chỗ lao động khi mới cổ phần hóa chỉ có 263 người, nay đã lên tới 525 người (tăng gần gấp đôi), trong đó số thuyền viên từ 112 người lên 352 người; số sỹ quan thuyền viên có trình độ khá giỏi tăng hơn 50 người, đáp ứng yêu cầu điều hành quản lý đội tàu. Trong tổng số 525 cán bộ công nhân viên hiện nay, có 394 người có trình độ đại học và trên đại học, chiếm 75%, đồng thời đội ngũ cán bộ có thâm niên trong khoảng từ 5-10 chiếm gần 50%. Tỷ lệ này là khá cao trong một công ty. Đặc biệt ở các vị trí quan trọng như: giám đốc, phó giám đốc, các trưởng phòng đều có bằng đại học loại ưu. Điều đó chứng tỏ quy mô của Công ty ngày càng mở rộng, và Công ty cũng đã rất chú trọng đến trình độ năng lực của các bộ phận, đặc biệt đội ngũ cán bộ có năng lực và trẻ tuổi. Họ là những con người nhiệt tình năng động trong công việc, khả năng sáng tạo và làm việc độc lập cao, chịu được áp lực công việc. Có thể nói rằng NOSCO hoàn toàn tự hào về đội ngũ lao động của mình.

Tăng cường mở rộng thị trường ra nước ngoài

Hiện nay, hơn 95% các hợp đồng tàu của NOSCO là vận chuyển hàng hoá đi các tuyến quốc tế như Tây Phi, Trung Mỹ, Nam Mỹ, Đông Nam Á. Ngoài tuyến hoạt động truyền thống là Đông Nam Á và Bắc Á tạo hậu thuẫn trong việc điều hành đội tàu, Công ty đã đầu tư thêm những tàu có trọng tải lớn để mở rộng tuyến hoạt động sang các thị trường Châu Mỹ, Châu Phi. Từ ngày 14-17/8/2008, tàu NOSCO Glory 68.591 DWT của Công ty đã cập cảng Vancouver, Portland (Mỹ) xếp hàng. Đây là tàu hàng rời đầu tiên mang cờ

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 03/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí