cấp thiết, vừa mang lại lợi ích to lớn cho nông dân. Để tăng cường tác động tích cực về phương diện này, thời gian tới Nhà nước cần triển khai một số biện pháp:
- Xây dựng một kế hoạch quốc gia dài hạn về xúc tiến thương mại hàng nông sản. Trong đó phân loại các mặt hàng nông sản theo chất lượng vào khả năng cung ứng để có kế hoạch xúc tiến thương mại đối với từng loại. Đối với mặt hàng có chất lượng cao, ổn định, khối lượng cung ứng lớn, lâu dài sẽ được hỗ trợ để mở rộng thị trường, xâm nhập thị trường mới. Đối với những mặt hàng chất lượng cao nhưng khối lượng không lớn hoặc còn ít, Nhà nước chỉ hỗ trợ giới thiệu mặt hàng. Những mặt hàng mới có khả năng mở rộng quy mô cũng được ưu tiên hỗ trợ giới thiệu mặt hàng. Những mặt hàng chất lượng thấp, không ổn định không nên đưa vào kế hoạch. Danh mục những mặt hàng được hỗ trợ xúc tiến thương mại với những mức độ khác nhau sẽ được điều chỉnh thường xuyên, tuỳ thuộc mức độ phát triển của các loại mặt hàng. Kế hoạch xúc tiến thương mại dài hạn được Nhà nước công bố và theo đó khuyến khích các ngành hàng phấn đấu có sản phẩm chất lượng cao, khối lượng cung ứng lớn, ổn định. Đồng thời đảm bảo uy tín của Việt Nam với tư cách là một nhà xuất khẩu nông sản lớn trên thị trường thế giới.
- Chính sách xúc tiến thương mại cần tập trung vào phân tích thông tin thị trường bao gồm phân tích thị trường giá cả, sản phẩm, đối thủ cạnh tranh, chính sách của các nước bạn hàng, xu hướng thị trường; tổng hợp các thông tin về luật và các quy chế thương mại của các tổ chức kinh tế quốc tế, các hiệp định thương mại song phương sẽ tác động tới xuất khẩu nông sản của Việt Nam;… Những thông tin dự báo dài hạn đúng đắn là cơ sở hết sức quan trọng cho xây dựng chính sách, điều hành xuất khẩu nông sản của Chính phủ và cho định hướng, xây dựng chiến lược sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, nông dân. Ngoài ra, để đảm bảo ổn định sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu, các cơ quan chức năng cần chủ động theo dõi sát, chủ động đàm phán giải quyết các vụ đưa tin sai sự thật về hàng nông sản Việt Nam và tháo gỡ rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu, đồng thời thực hiện nghiêm việc kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng hóa có nguồn gốc động vật vào Việt Nam.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân áp dụng các quy định về kiểm dịch và thực hiện quy trình GAP tiêu thụ hàng hóa thuận lợi thông qua phương thức cung cấp giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để tránh áp dụng phương thức này
một cách tràn lan gây hiệu ứng vô hiệu hóa giấy xác nhận, cần kiểm soát chặt chẽ việc cấp giấy xác nhận sao cho đúng đối tượng và thực hiện xử phạt nếu cấp không đúng, giả mạo giấy xác nhận hoặc có giấy xác nhận rồi lại không thực hiện đúng quy trình. Đồng thời, Nhà nước thành lập cơ quan có trách nhiệm giúp khách hàng truy tìm nguồn gốc xuất xứ của nông sản. Hoạt động của cơ quan này vừa giúp bảo hộ các thương hiệu nông sản đặc thù cho từng vùng, đồng thời tăng tín nhiệm đối với hàng nông sản Việt Nam.
- Đầu tư thỏa đáng cho công tác thu nhập thông tin thị trường để cung cấp cho nông dân, coi đây là một trong những trách nhiệm quan trọng của cơ quan phụ trách nông nghiệp, ngang bằng với chức năng chỉ đạo sản xuất. Trước hết, Nhà nước cần ưu tiên hơn nữa kinh phí, nhân lực và thời gian cho việc hoàn thiện hệ thống thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin thị trường, thông tin cảnh báo cho nông dân để họ chủ động trong việc đối phó với các biến động nhu cầu và giá cả trên thị trường thế giới và trong nước. Bộ NN&PTNT phải được giao đặc trách nhiệm vụ này. Cơ quan này phải thường xuyên cung cấp thông tin cảnh báo về nhu cầu thị trường nông sản cả trong dài hạn lẫn trạng thái thị trường ngắn hạn. Nếu mở rộng thông tin dự báo đến mức có thể đưa ra các khuyến nghị nông dân nên hành động như thế nào thì càng tốt. Nhưng tối thiểu cơ quan này cũng phải cung cấp được thông tin dự báo đủ để nông dân không bị hẫng hụt do sản xuất vượt quá nhu cầu. Nhà nước cũng cần khuyến khích các cơ quan khác thuộc bộ máy nhà nước hỗ trợ cơ quan quản lý nông nghiệp nâng cao năng lực thông tin và dự báo thị trường. Ví dụ như cơ quan quản lý thương mại, cơ quan ngoại giao, cơ quan quản lý nhà nước cần được giao thêm nhiệm vụ thu thập thông tin thị trường nông sản để có được thông tin cập nhật, chính xác cung cấp cho nông dân và các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh nông sản. Nhà nước cũng nên đưa nhiều hơn nữa các thông tin về chính sách, về thị trường về dự báo các diễn biến kinh tế, xã hội, khí hậu, quốc tế ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ nông sản lên các trang website, báo chí, đài phát thanh và chương trình truyền hình phổ cập để thông tin thường xuyên đến với nông dân, giúp nông dân thay đổi và học cách hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh hiện đại.
4.2.2.4. Hỗ trợ nông dân tham gia trực tiếp hơn vào hệ thống tiêu thụ nông sản
Hiện nay, nền kinh tế nông thôn của Việt Nam được đặc trưng bởi sự thiếu vắng các chợ bán buôn nông thôn đối với các hàng nông sản. Các nhà kinh doanh phải thu mua phần lớn nông sản ở cửa trại hoặc qua các đại lý thu gom. Nông dân, nhà kinh
Có thể bạn quan tâm!
- Về Hỗ Trợ Hông Dân Tiếp Cận Vốn Tín Dụng Thuận Lợi
- Về Hỗ Trợ Nông Dân Ứng Dụng Khoa Học - Công Nghệ Vào Sản Xuất
- Hỗ Trợ Nông Dân Giảm Chi Phí Vật Tư Nông Nghiệp
- Hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập WTO - 21
- Hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập WTO - 22
Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.
doanh và các doanh nghiệp nông nghiệp ít có cơ hội gặp nhau trên thị trường để họ có thể so sánh giá cả, chất lượng, cũng như thiết lập các mối liên hệ. Sự có mặt của những địa điểm như vậy sẽ thúc đẩy sự phổ biến thông tin giữa các bên có liên quan và cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kiểm tra chất lượng, áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật cũng như tiêu chuẩn môi trường của các cơ quan có chức năng.
Có thể nhận thấy rằng với hệ thống tiêu thụ nông sản như hiện nay, nông dân phụ thuộc rất nhiều vào các thành phần tham gia vào hệ thống đó. Với tư thương là hàng trăm mối quan hệ ràng buộc như cho vay mua vật tư, bao tiêu sản phẩm, mức giá mua thấp, bao nhiêu chi phí vận chuyển, thu gom, tồn kho đều trừ lùi trong giá nông sản về phía người nông dân bất chấp chi phí của họ là như thế nào. Tuy nhiên, nếu không có hoạt động của tư thương thì nông dân còn không thể tiêu thụ được nông sản do không có hệ thông tiêu thụ riêng của mình. Với doanh nghiệp chế biến, khi gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm chế biến, doanh nghiệp chế biến cũng đẩy chi phí tồn kho, chi phí nuôi dưỡng để duy trì nông sản về phía người nông dân khiến họ càng chịu thêm nhiều chi phí mà giá cả thị trường khó chấp nhận. Với doanh nghiệp xuất khẩu, khi xuất khẩu hoặc đưa vào siêu thị, nông dân không làm chủ thương hiệu nông sản, lợi ích của thương hiệu chủ yếu dồn vào siêu thị và nhà xuất khẩu. Với hệ thống tiêu thụ như vậy, người nông dân không có cách gì cải thiện thu nhập, ngược lại, họ bị ép cấp, ép giá một cách phổ biến, phần được hưởng của nông dân trong chuỗi giá trị ngành quá thấp.
Nhằm khắc phục tình trạng này, Nhà nước, nhất là các cấp chính quyền địa phương cần hỗ trợ để nông dân có thể tham gia sâu vào hệ thống tiêu thụ nông sản, qua đó bảo vệ lợi ích của nông dân. Cụ thể là:
- Hỗ trợ nông dân tự tổ chức thành hợp tác xã tiêu thụ nông sản. Đây là hoạt động mà nông dân ở nhiều nước đã thực hiện khá thành công (Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan). Vấn đề là nông dân phải ý thức được lợi ích và khả năng của mình để tự quản tốt các hợp tác xã. Các mô hình hợp tác xã tiêu thụ nông sản, muốn hoạt động tốt, cần điều kiện: Một là, quyết tâm của các hộ gia đình nông dân ủng hộ và tự quản hợp tác xã để phục vụ chính họ. Do vậy, Nhà nước phải tạo niềm tin cho họ bằng cách giao quyền tự quyết về tổ chức và xây dựng ở nông thôn cho nông dân. Hai là, có đội ngũ quản trị hợp tác xã mang tinh thần cách mạng nông thôn, có ý chí và nguyện vọng phục vụ lợi ích chung của nông dân, có kinh nghiệm và tri thức quản lý, không coi
việc quản trị hợp tác là phương tiện tìm kiếm thu nhập, không có tư tưởng làm giàu trên lưng nông dân. Ba là, hợp tác xã phải có động lực tích lũy để mở rộng hoạt động phân loại, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ nông sản. Muốn vậy, cần thay đổi Luật Hợp tác xã theo hướng khuyến khích xã viên để lại lợi nhuận xây dựng hợp tác xã như xây kho chứa, xây dựng nhà máy chế biến, mua sắm phương tiện vận chuyển, làm chủ các trung tâm giao dịch nông sản lớn... Hơn nữa, các hợp tác xã tiêu thụ nông sản cần liên minh với nhau để tạo thành mạng lưới tiêu thụ nông sản trong nước có xu hướng hoạt động thống nhất với nhau. Hợp tác xã tiêu thụ cũng nên kết hợp thêm chức năng cung ứng vật tư để tận dụng năng lực sản xuất đã đầu tư và để phục vụ trọn gói cho nông dân.
- Chính phủ cần phải xúc tiến thành lập các chợ bán buôn ở nông thôn hay những sàn giao dịch hiện đại ở các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung. Nhà nước tích cực xây dựng các trung tâm kiểm dịch và xác nhận chất lượng sản phẩm để nông dân có thể tự mình xin xác nhận nông sản sạch, tạo điều kiện để nông dân trực tiếp đưa sản phẩm vào các thị trường có giá tiêu thụ cao như siêu thị, nhà hàng, khách sạn. Nhà nước đầu tư hơn nữa cho xây dựng các trung tâm giao dịch nông sản lớn để nông dân có địa chỉ tiêu thụ nông sản, khắc phục hiện tượng phụ thuộc hoàn toàn vào tư thương như hiện nay.
4.2.3. Nhóm giải pháp về hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho nông dân
4.2.3.1. Nâng cao nhận thức và kỹ năng lao động cho nông dân trong phát triển sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế
Nguồn lực to lớn nhất, cơ bản nhất để phát triển nông nghiệp, kinh tế - xã hội nông thôn và nâng cao đời sống nông dân một cách nhanh, mạnh, bền vững là nguồn nhân lực chất lượng cao và năng lực khoa học - công nghệ của nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Do đó, cần phải tạo được bước tiến mới mang tính đột phát trong việc nâng cao nhận thức và kỹ năng lao động cho nông dân trong phát triển sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển rộng khắp ở các tụ điểm dân cư trên địa bàn nông thôn hệ thống trường, lớp phổ thông phù hợp; sắp xếp, phân bố hợp lý hệ thống đào tạo từ sơ cấp đến cao đẳng, đại học gắn với địa bàn nông thôn, hướng vào các yêu cầu sau: Một là, nâng cao học vấn và dân trí cho cư dân nông thôn nói chung, nông dân nói riêng nhằm
phổ cập học vấn phổ thông theo lộ trình từ thấp đến cao; Hai là, đào tạo nâng cao trình độ và kỹ năng lao động cho nguồn nhân lực ở nông thôn đáp ứng các yêu cầu của sản xuất nông nghiệp và các hoạt động phi nông nghiệp; Ba là, đào tạo đội ngũ lao động trình độ cao nhằm trí thức hóa một bộ hóa con em nông dân để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế tuyển sinh, chính sách học phí, học bổng, chế độ đãi ngộ và nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, cách dạy, cách học phù hợp với nhu cầu thực tiễn phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn trên từng vùng, miền để sớm đào tạo cung cấp cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn một đội ngũ lao động có chất lượng, trình độ cao, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu gắn bó mật thiết với đồng ruộng, quê hương.
Tăng cường các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho nông dân kiến thức khoa học, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại về sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp; đào tạo nghề cho con em nông dân để chuyển nghề. Đồng thời phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội cho đội ngũ cán bộ cơ sở, đảm bảo hằng năm đào tạo 1 triệu lao động nông thôn.
4.2.3.2. Nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ
Trong kinh tế nông thôn, cùng với phát triển nông nghiệp, thì phát triển các ngành, nghề phi nông nghiệp là nội dung then chốt để đạt được các mục tiêu CNH, HĐH. Ở nước ta, xu thế hướng tới một cơ cấu kinh tế nông thôn có hiệu quả là tăng nhanh tỷ trọng các ngành, nghề phi nông nghiệp, đồng thời tạo ra sự liên kết hữu hiệu giữa nông nghiệp và phần phi nông nghiệp. Việc phát triển các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng và phát triển các loại thị trường ở nông thôn sẽ chi phối cơ cấu ngành, nghề của kinh tế nông thôn, trong đó các ngành, nghề phi nông nghiệp là mục tiêu hướng tới của nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh. Để thực hiện được điều đó, cần nghiên cứu xây dựng một chiến lược quốc gia về phát triển các ngành, nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Chiến lược cần nêu ra được những định hướng cơ bản về phát triển các ngành, nghề trên cơ sở khai thác những lợi thế về nguồn lực của các vùng nông thôn và đáp ứng yêu cầu có mối liên kết có hiệu quả giữa nông nghiệp và phần phi nông nghiệp.
Trong quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch và hoạch định chính sách, cần xác
định rõ và bám sát những định hướng phát triển quan trọng sau đây:
Một là, định hướng ngành, nghề, bao gồm: Các ngành, nghề chế biến nông sản; các ngành, nghề phục vụ sản xuất nông nghiệp như: sản xuất vật tư, thiết bị máy móc, thiết bị nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến, các dịch vụ…
Hai là, định hướng hình thành các trung tâm công nghiệp - thương mại ở nông thôn, có thể dưới các dạng: Các khu chế xuất, khu - hoặc cụm công nghiệp, tập trung tại đó các cơ sở chế biến có mối quan hệ dây chuyền với nhau về nguyên liệu, vật tư, và các kết cấu hạ tầng phục vụ tiếp thị, như kho tàng, bến bãi, cảng, sân bay,… để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và lưu thông, tăng kết nối thị trường. Các đặc khu kinh tế, với hệ thống chính sách ưu đãi thu hút lao động có trình độ, trí thức từ thành phố về nông thôn, từ miền xuôi lên miền núi làm việc, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư tại nông thôn và các vùng khó khăn, khuyến khích và phát triển kinh doanh trên các địa bàn định hướng. Các khu du lịch - làng nghề truyền thống, tạo sản phẩm có nội dung văn hoá cao, có đặc thù dân tộc, gắn với hoạt động kinh doanh du lịch sinh thái, du lịch văn hoá,...
Ba là, định hướng phát triển về quy mô và lựa chọn công nghệ hợp lý: Đối với những ngành có lợi ích kinh tế nhờ quy mô như nhà máy chế biến mía đường, nhà máy chế biến gỗ ván nhân tạo,… cần đầu tư trên quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Tính chất này ảnh hưởng đến việc quy hoạch vùng nguyên liệu, cân đối cung - cầu, và phải được chú ý cân nhắc trước khi xem xét các nhu cầu khác như tạo việc làm cho nông dân, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường,… Đối với những ngành không có lợi ích kinh tế nhờ quy mô, cần cần tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể để xem xét áp dụng các loại công nghệ cao phù hợp với tiêu chuẩn thị trường nhưng có quy mô sản xuất nhỏ và vừa để có thể phát triển phân tán, gắn với vùng nguyên liệu nông thôn, cân đối với khả năng đầu tư và quản lý của các thành phần kinh tế. Đối với những ngành khác, cần chú ý đầu tư công nghệ hiện đại ở những khâu cần thiết kết hợp với việc huy động lao động thủ công để tạo giá trị gia tăng và việc làm cho người lao động.
4.2.3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn
Phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị ở địa phương. Nhận thức đúng về đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn là cơ hội để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực cho địa phương, nâng cao chất lượng, năng suất lao động; góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, ở địa phương nào có sự quan tâm của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội… thì ở đó công tác dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn đạt được kết quả mong muốn.
Đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động thực sự của các cơ sở sản xuất, kinh doanh - dịch vụ trên địa bàn; từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương; đồng thời dựa trên nhu cầu thực tế về nghề nghiệp của người dân, chứ không phải là các hoạt động có tính phong trào, nhất thời. Vì vậy, công tác điều tra, khảo sát nhu cầu phải thực hiện thường xuyên; nắm chắc các nhu cầu thực tế (theo từng nghề, nhóm nghề, vị trí công việc…) của người dân ở từng địa phương (xã, huyện) và của doanh nghiệp. Để làm tốt việc này, ngoài việc huy động các cơ quan chuyên môn (lao động, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thống kê…) cần kết hợp với công tác tuyên truyền, tư vấn nghề nghiệp, thông tin đến từng người dân về nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp...
Do tính đa dạng vùng miền và tính đặc thù của người nông dân và lao động nông thôn (trình độ học vấn không đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói quen canh tác…), nên việc tổ chức các khóa đào tạo phải rất linh hoạt về chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, phương thức đào tạo, phương pháp truyền đạt… Chương trình đào tạo phải gắn với học liệu sinh động, đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ của người học.
Đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải gắn với giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động; gắn với xóa đói, giảm nghèo và góp phần bảo đảm an sinh xã hội ở nông thôn; gắn với xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, nhất là vai trò của chính quyền cấp xã, cấp huyện. Thực tế thời gian qua cho thấy, ở nơi nào có sự phối hợp tốt giữa các đối tác này thì ở đó công tác đào tạo nghề đạt được kết quả rất tích cực (người dân có việc làm, năng suất lao động và thu nhập của người dân được nâng lên, giảm nghèo bền vững…). Đặc biệt, dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải gắn kết chặt chẽ với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 của Chính phủ.
Để những người nông dân trở thành những lao động nông nghiệp hiện đại, song song với việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cần trang bị cho họ những kiến thức tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, về thị trường, kiến thức kinh doanh trong điều kiện hội nhập.
4.2.4. Nhóm giải pháp liên quan đến hoạch định và thực thi chính sách hỗ trợ đối với nông dân
4.2.4.1. Đổi mới phương thức hoạch định chính sách đối với nông dân
Hoạch định chính sách hỗ trợ nông dân dựa trên quan điểm nông dân là chủ thể của chính sách. Cần thay đổi quan niệm cho rằng, chỉ cần Nhà nước tốt với nông dân và chính sách có lợi cho nông dân là được nông dân hưởng ứng. Trên thực tế, cơ quan nhà nước thường xuyên ở tình trạng thiếu thông tin, nhất là thông tin về nhu cầu và cách thức mà nông dân có thể thực hiện. Do đó, đôi khi chính sách được Chính phủ cho là tốt lại không được nông dân đánh giá tốt. Muốn thay đổi cách làm chính sách, cần giao quyền rộng rãi cho nông dân trực tiếp xây dựng, thực hiện và kiểm tra những chính sách tác động đến họ. Chẳng hạn, nên tham khảo ý kiến của nông dân về cách thức hỗ trợ có tác dụng với họ để hoạch định chính sách hỗ trợ cho trúng. Đặc biệt, cần giao quyền cho nông dân đề xuất nhu cầu về hỗ trợ của Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và giao cho họ quyền giám sát thực hiện các công trình này. Để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân cần lấy ý kiến góp ý của nông dân trước khi ban hành. Hơn nữa, mỗi chính sách đều nên xác định mục tiêu ưu tiên rõ ràng và xây dựng phương án thực hiện chu đáo để có thể chỉ đạo, đánh giá và vận hành tốt. Cần đổi mới tư duy lập chính sách theo hướng quan tâm nhiều hơn tới đối tượng hưởng lợi, tới mức độ ảnh hưởng và xác lập quy chế giám sát rõ ràng, minh bạch. Nhà nước cần cải cách hành chính theo hướng phục vụ dân cư, nhất là đối với những nông dân thiếu kinh nghiệm trong tiết cận dịch vụ công.
Điều chỉnh hệ thống chính sách, quy định liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo hướng dài hạn, bài bản, có cân nhắc đến hậu quả của tác động chính sách. Cần tăng cường hệ thống nghiên cứu, thu thập thông tin chuyên ngành từ Trung ương đến địa phương để có thể điều chỉnh và chỉ đạo thực hiện chính xác. Nhanh chóng xây dựng cơ chế giám sát, cảnh báo khi xảy ra tranh chấp hoặc tình trạng khẩn cấp khi nông sản nước ngoài tràn ngập thị trường trong nước đe dọa các