Cơ Sở Lý Luận Về Hiệu Quả Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

1.1. Khái niệm và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

1.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh

HQKD từ lâu đã luôn là vấn đề được các DN quan tâm hàng đầu và HQKD của DN đóng vai trò rất quan trọng trong việc tối đa LN. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, cơ chế nguyên tắc vận hành cơ bản là cạnh tranh tự do. Thực tế xác nhận rằng cho đến nay, sau khi mà nền kinh tế đã vượt qua kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp, cạnh tranh là cơ chế phân bổ các nguồn lực hiệu quả nhất. Thông qua cạnh tranh tự do, với mục tiêu đối đa hoá LN, các HĐKD phải đi theo chiến lược kinh doanh nhất định và quá trình kinh doanh phải diễn ra thật sự hiệu quả.

Đối với một DN, HQKD và các yếu tố trong SXKD có mối quan hệ mật thiết với nhau như: nhân sự, tiền vốn, trang thiết bị, nguyên vật liệu,… Vì vậy, một DN có HQKD cao là một DN sử dụng các yếu tố trên một cách hiệu quả trong quá trình SXKD. DN hoạt động hiệu quả từ đó có điều kiện để đầu tư trang thiết bị hiện đại cho SXKD, áp dụng khoa học công nghệ mới, thu hút nhiều nhân viên giỏi, đưa ra nhiều chính sách để nâng cao chất lượng đời sống nhân viên cũng như việc thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến ngân sách Nhà nước.

Quan điểm thứ nhất: Theo “Giáo trình Quản trị kinh doanh” của GS. TS Nguyễn Thành Độ và PGS. TS Nguyễn Ngọc Huyền, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2017: “HQKD là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được cái mục tiêu kinh doanh xác định. Chỉ các


DN kinh doanh mới nhằm vào mục tiêu tối đa hoá LN và vì thế mới cần đánh giá HQKD.”

Theo quan điểm thứ hai: “HQKD là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của DN để đạt kết quả cao nhất trong kinh doanh với chi phí thấp nhất”. Như vậy, HQKD khác hoàn toàn với kết quả kinh doanh nhưng lại tồn tại giữa chúng một mối quan hệ khá chặt chẽ. (Nguyễn Văn Công, 2009).

Từ các quan điểm đã nêu ra trên đây, ta có thể nhận ra rằng các DN muốn đạt được mục tiêu kinh doanh có hiệu quả thì DN đó cần để ý đến những yếu tố hiện có của mình, phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu và tối ưu chi phí. Hơn nữa, trong kinh doanh, hiệu quả liên quan đến sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ bằng cách sử dụng số lượng hoặc tài nguyên nhỏ nhất (vốn, LLLĐ, năng lượng,…). Nâng cao HQKD yêu cầu với chi phí tối thiểu nhất có thể, ta phải sử dụng các yếu tố đầu vào một cách hợp lý nhất để đạt được kết quả tối đa. Vì vậy, khái niệm về HQKD có thể được khái quát như sau: HQKD của DN là sự so sánh giữa kết quả đầu ra của DN với các yếu tố, nguồn lực đầu vào của DN để tạo ra đầu ra đó.”

Như vậy, HQKD là một đại lượng so sánh: so sánh giữa đầu ra với đầu vào và ngược lại, so sánh giữa chi phí và DT,… Kết quả đầu ra được biểu hiện bằng giá trị tổng sản lượng, DT và LN. Yếu tố đầu vào được hiểu là LLLĐ, máy móc trang thiết bị, vốn và các yếu tố khác.

Theo “Giáo trình Quản trị kinh doanh” của GS. TS Nguyễn Thành Độ và PGS. TS Nguyễn Ngọc Huyền, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2017, về mặt so sánh tuyệt đối thì HQKD được xác định như sau:

H = K – C

Trong đó:

H: Hiệu quả kinh doanh


K: Kết quả đạt được

C: Chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào

+ Nếu H > 0, cho thấy DN hoạt động có hiệu quả vì kết quả đạt được lớn hơn chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào.

+ Nếu H 0, cho thấy DN hoạt động không hiệu quả, thậm chí là thua lỗ vì kết quả đạt được nhỏ hơn hoặc bằng chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào.

Về mặt so sánh tương đối thì HQKD được xác định như sau:

C

H =

K

Trong đó:

H: Hiệu quả kinh doanh K: Kết quả đạt được

C: Chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào

+ Nếu H < 1 thì có nghĩa DN hoạt động có hiệu quả vì kết quả đạt được lớn hơn chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào.

+ Nếu H 1, cho thấy DN hoạt động không hiệu quả, thậm chí là thua lỗ vì kết quả đạt được nhỏ hơn hoặc bằng chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào.

1.1.2. Bản chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

HQKD là một phạm trù kinh tế, gắn với cơ chế thị trường, phản ánh mặt chất lượng các HĐKD. Do các HĐKD có chất lượng thì mới tạo ra được kết quả đạt được.

HQKD phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình tiến hành các HĐKD của DN. Thực chất, việc lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình tiến hành các HĐKD tốt bao nhiêu thì càng tiết kiệm


chi phí bấy nhiêu để đạt được mục đích SXKD mà DN đã đề ra. Vì vậy, có thể hiểu HQKD là đạt được kết quả tối đa nhất có thể chỉ với chi phí tối thiểu.

HQKD rất phức tạp và khó đánh giá vì cả chi phí cho nguồn lực đầu vào và kết quả mà DN đạt được đều khó xác định chính xác. Kết quả đạt được ở đây là tất cả những gì mà DN đạt được sau một quá trình kinh doanh nhất định. Chi phí cho nguồn lực đầu vào được tính bằng chi phí tài chính hoặc chi phí kinh doanh. Ngoài ra, chi phí cho nguồn lực có thể được hiểu là chi phí để tạo ra nguồn lực đầu vào và chi phí để sử dụng nguồn lực đó, bao gồm cả chi phí cơ hội trong đó. Chi phí cơ hội ở đây được hiểu là chi phí do đã không lựa chọn các thay thế “tốt nhất kế tiếp” hay được hiểu là những chi phí của sự bỏ qua một công việc nào đó để tập trung thực hiện công việc khác.

Bản chất HQKD cũng có thể được hiểu là sử dụng các giải pháp để vừa tiết kiệm lao động xã hội vừa nâng cao năng suất lao động xã hội, từ đó góp phần cho xã hội phát triển bền vững. Trong bối cảnh nguồn nhân lực khan hiếm như hiện nay và cả xã hội cạnh tranh nhau để sử dụng lao động có chuyên môn, trình độ, DN cần phải khai thác, sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả nhất có thể và tiết kiệm nguồn nhân lực. DN nâng cao năng suất lao động để tiết kiệm thời gian sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm chi phí, từ đó DN sẽ thể hiện được năng lực quản lý DN, chắc chắn kết quả đạt được sẽ cao và hoàn thành nhiệm vụ kinh tế xã hội với chi phí thấp nhất.

1.1.3. Phân biệt giữa kết quả và hiệu quả kinh doanh

Kết quả kinh doanh có thể hiểu là kết quả đạt được của một DN, là giá trị cho thấy quy mô đầu ra của việc SXKD của DN sau mỗi kỳ kinh doanh. Kết quả đạt được nếu được đo bằng thước đo hiện vật thì rất đa dạng và phù hợp với tính chất của sản phẩm nhưng lại khó xác định chính xác vì trong mỗi kì lại luôn có thành phẩm và sản phẩm dở dang. Kết quả đạt được nếu được đo bằng thước đo giá trị thì đó là DT, LN mà DN đạt được, kết quả đạt được


khó chính xác do tính không ổn định của thước đo giá trị và quá trình tiêu thụ và thu tiền không trùng nhau, hơn nữa nguồn lực còn bị hao phí trong quá trình kinh doanh.

Trong khi đó, HQKD là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của DN để đạt kết quả cao nhất trong kinh doanh với chi phí thấp nhất. HQKD được xác định bằng tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.

Xét về bản chất thì kết quả và HQKD khác nhau hoàn toàn, kết quả phản ánh quy mô đạt được là lớn hay nhỏ và không phản ánh chất lượng HĐKD. Sau khi có kết quả đạt được, người ta mới tính đến HQKD. Kết quả kinh doanh dùng để tính toán và phân tích HQKD trong một khoảng thời gian nào đó: một ngày, một tháng, một quý hoặc một năm. Còn HQKD phản ánh kết quả đạt được được chi phí nhất định. Từ đó ta có thể thấy kết quả và HQKD tuy khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc đánh giá HQKD mới xác định được DN làm ăn có hiệu quả hay không. Sau khi xác định được kết quả kinh doanh, DN phải tính đến để đạt được kết quả đó thì phải bỏ ra bao nhiêu chi phí cho nguồn lực đầu vào như nhân công, máy móc, trang thiết bị, đầu vào,… sử dụng các nguồn lực SXKD có hiệu quả không và có tiết kiệm được chi phí đầu vào không, từ đó mới xác định được DN làm ăn có hiệu quả hay không.

1.1.4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh

Trong cơ chế thị trường, các DN phải cạnh tranh nhau thì mới có thể tồn tại được. Quy luật cạnh tranh buộc mỗi DN chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi luôn biết tạo ra và duy trì các lợi thế cạnh tranh. Để tạo ra và duy trì các lợi thế cạnh tranh, các DN phải nâng cao HQKD thông qua việc nâng cao trình độ, đổi mới HĐKD, đổi mới công tác quản lý, đổi mới công nghệ, cải


tiến nghiệp vụ kinh doanh, quản lý và sử dụng tốt mọi nguồn lực trong DN. Thị trường ngày càng phát triển thì các DN càng cạnh tranh ngày một gay gắt và khốc liệt hơn. Để đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường, các DN phải nâng cao HQKD. Cạnh tranh là yếu tố có thể làm cho DN mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể làm cho DN yếu đi nếu DN không nâng cao HQKD.

Nâng cao HQKD là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm nguồn lực lao động xã hội. Do sự chi phối của “quy luật khan hiếm” buộc mọi DN phải sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. DN phải cân nhắc việc quản lý, sử dụng các nguồn lực sản xuất sao cho có hiệu quả nhất và tiết kiệm nhất. Để đạt được mục tiêu nâng cao HQKD, các DN phải khai thác, tận dụng triệt để các nguồn lực và phát huy năng lực của các nguồn lực.

Hiện tại, nền kinh tế nước ta đang hội nhập một cách sâu rộng, các DN nước ngoài đang đầu tư rất lớn vào Việt Nam, các DN trong nước không chỉ phải cạnh tranh với nhau mà còn phải cạnh tranh với sự lớn mạnh của các DN nước ngoài. Vì vậy, sự yếu kém của các DN Việt Nam buộc họ phải đối mặt với sức ép to lớn từ các DN nước ngoài. Nâng cao HQKD không chỉ làm cho các DN trong nước lớn mạnh mà còn gắn liền với sự sống còn của họ trước các DN nước ngoài.

Nâng cao HQKD là cơ sở để nâng cao thu nhập cho chủ sở hữu và người lao động, từ đó góp phần nâng cao mức sống của người dân. Ngoài ra, nâng cao HQKD của mỗi DN góp phần nâng cao nền kinh tế của toàn xã hội.

Để nâng cao HQKD của một DN thì DN cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu như sau: giải pháp tăng DT, giải pháp tăng hiệu quả sử dụng chi phí, giải pháp tăng hiệu quả sử dụng lao động, giải pháp tăng hiệu quả sử dụng vốn và giải pháp về quản lý rủi ro. DN có thể áp dụng một số giải pháp cụ thể như: nghiên cứu thị trường, thúc đẩy hoạt động marketing, đa dạng hoá


sản phẩm, áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn và ngắn hạn,…

1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

Theo “Giáo trình Quản trị kinh doanh” của GS. TS Nguyễn Thành Độ và PGS. TS Nguyễn Ngọc Huyền, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2017, chỉ ra như sau:

1.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời

Khả năng sinh lời là chỉ tiêu phản ánh mức LN mà DN có thể thu được trên một đơn vị chi phí hay yếu tố đầu vào hay trên một đơn vị đầu ra phản ánh kết quả kinh doanh. Khả năng sinh lời và HQKD có 1 mối quan hệ tương đối chặt chẽ với nhau. Khả năng sinh lời của một DN cao thì HQKD sẽ cao và ngược lại, vì vậy, ta có thể khẳng định khả năng sinh lời là biểu hiện cao nhất của HQKD. Khi đánh giá khả năng sinh lời của một DN, ta sẽ đánh giá các chỉ tiêu: Tỷ suất sinh lời của tổng tài sản – ROA, Tỷ suất sinh lời của DT – ROS và Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu – ROE.

+ Tỷ suất sinh lời của tổng tài sản – ROA:

Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (Return on assets – ROA) là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lời trên mỗi đồng tài sản của DN. ROA đo lường khả năng sinh lời của tài sản mà không quan tâm tới cấu trúc tài chính, thể hiện tính hiệu quả của việc sử dụng tài sản. Đây là một chỉ tiêu khá toàn diện trong việc đánh giá HQKD của một DN. Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản được tính bằng tỷ lệ của LN sau thuế trên tổng tài sản bình quân trong kỳ kinh doanh của DN. Công thức như sau:



Lợi nhuận sau thuế

Tỷ suất sinh lời của tổng tài sản – ROA =


Tổng tài sản bình quân

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần Truyền thông số 1 - 3

(Tổng tài sản bình quân trong kỳ được tính bằng trung bình cộng của tổng tài sản đầu kỳ và cuối kỳ của DN)


ROA cho biết cứ một trăm đồng tổng tài sản thì có bao nhiêu đồng LN được mang lại. ROA càng cao chứng tỏ khả năng sinh lời của tổng tài sản hoặc tần suất khai thác các tài sản của DN càng lớn, thể hiện cơ cấu, quản lý, đầu tư, trang bị và sử dụng tài sản một cách có hiệu quả và hợp lý. Chỉ số ROA của các DN hoạt động không cùng ngành là rất khác nhau do đặc thù của mỗi ngành khiến cho quy mô và cơ cấu tài sản của các DN rất khác biệt.

+ Tỷ suất sinh lời của DT – ROS:

Tỷ suất sinh lời trên DT (Return on sales) là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lời trên mỗi đồng DT của DN. Tỷ suất sinh lời của DT trong một kỳ nhất định được tính bằng tỷ lệ của LN sau thuế trên DT. Công thức như sau:


Lợi nhuận sau thuế

Tỷ suất sinh lời của DT – ROS =

Doanh thu

Đây là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khả năng sinh lời của toàn bộ hoạt động của DN. ROS cho biết quy mô LN được tạo ra từ mỗi đồng DT. Việc phân tích ROS sẽ giúp ta có được thông tin về chiến lược giá và khả năng kiểm soát chi phí của DN. Một DN có tỷ suất sinh lời của DT càng cao thì được đánh giá là quản lý tốt về chi phí trong HĐKD hay thực hiện chiến lược cạnh tranh về mặt chi phí. ROS càng cao cho thấy khả năng sinh lời từ DT càng cao. Như vậy, khi DT không đổi, nếu DN quản lý chi phí tốt, giảm thiểu được các chi phí phát sinh tốt nhất có thể thì LN sẽ cao hơn và tỷ suất sinh lời của DT cũng được cải thiện. Tuy nhiên, chỉ nên đánh giá ROS đối với các DN cùng ngành do các ngành khác nhau có sự khác biệt rất lớn về ROS.

+ Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu – ROE:

Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu (Return On Equity) là chỉ số đo lường mức độ hiệu quả của việc sử dụng vốn chủ sở hữu trong DN. Tỷ suất sinh lời

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 26/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí