trữ sắt và giảm xuống khi tình trạng sắt được cải thiện. Điều thuận lợi của chỉ số TfR so với SF là TfR ít bị thay đổi khi cơ thể bị nhiễm trùng, ít thay đổi theo giới, tuổi và tình trạng sinh lý. Hiện nay, vẫn chưa có một ngưỡng chuẩn thống nhất cho TfR trên toàn thế giới, tuy nhiên ngưỡng >8,5 mg/L trên trẻ em được sử dụng để xác định tình trạng thiếu sắt [87].
Chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt được xác định khi có cả thiếu máu và thiếu sắt. Thiếu sắt được xác định bằng cách đo nồng độ ferritin hoặc TfR huyết thanh, nhưng chỉ số TfR huyết thanh có nhiều ưu điểm hơn [106].
1.13. GIẢI PHÁP CAN THIỆP
1.13.1. Giải pháp dựa vào nguồn thực phẩm (food based approache)
1.13.1.1. Nguồn thực phẩm tự nhiên giàu selen và sắt
Nguồn thực phẩm giàu selen nhất là các loại thịt và hải sản (0.4–1.5 mg/g). Ngũ cốc và lúa gạo chứa một lượng selen dao động từ <0.1 đến >0.8 mg/g tùy thuộc vào hàm lượng selen có trong đất trồng [38]. Theo đó, hàm lượng selen có trong thức ăn từ động vật cũng phụ thuộc vào hàm lượng selen trong các loại thực vật mà động vật ăn vào hoặc phụ thuộc vào việc bổ sung selen trong khẩu phần ăn của động vật. Hơn 90% selen có trong chế độ ăn uống là ở dạng selenomethionine, phần còn lại bao gồm selenocysteine có trong các selenoprotein động vật và tồn tại dưới các dạng vô cơ của selen [43]. Quá trình hấp thụ selen không được điều tiết, lượng selen trong khẩu phần ăn có thể được hấp thụ từ 50 – 100% [38].
Trong thức ăn sắt tồn tại dưới dạng Hem và không ở dạng Hem. Hem là thành phần của Hemoglobin và Myoglobin do đó có trong thịt, cá và máu là những thực phẩm giàu sắt và có tỷ lệ hấp thu cao 20 - 30%. Sắt không ở dạng Hem chủ yếu có ở ngũ cốc rau, củ và các loại hạt có tỷ lệ hấp thu ít hơn và tùy theo sự có mặt của các chất hỗ trợ hay ức chế trong khẩu phần. Các chất hỗ trợ hấp thu sắt là vitamin C, các thức ăn giàu protein. Các chất ức chế hấp thu sắt là các phytat, polyphenol, tanin. Ngoài ra tình trạng sắt trong cơ thể cũng ảnh hưởng tới hấp thu sắt [2, 43].
Có thể bạn quan tâm!
- Hấp Thu, Chuyển Hóa, Dự Trữ Và Thải Trừ Selen
- Biểu Hiện Lâm Sàng Của Thừa Và Thiếu Selen
- Mối Liên Quan Giữa Thiếu Sắt Và Thiếu Máu Thiếu Sắt Trong Quần Thể
- Một Số Nét Cơ Bản Về Địa Bàn Nghiên Cứu
- Lựa Chọn Cộng Tác Viên Và Nhiệm Vụ Của Cộng Tác Viên
- Đặc Điểm Tình Trạng Dinh Dưỡng Của Trẻ Tham Gia Điều Tra Sàng Lọc
Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.
1.13.1.2. Đa dạng hoá bữa ăn
Đa dạng hoá bữa ăn là sự tận dụng triệt để và phối hợp nhiều loại thực phẩm và các nhóm thức ăn sẵn có ở địa phương để cải thiện chất lượng của bữa ăn. Đa dạng hoá bữa ăn là biện pháp căn bản, cần thiết để đảm bảo nguồn sắt và vi chất trong khẩu phần.
Tuy nhiên, giải pháp này đòi hỏi phải dựa trên hai yếu tố cơ bản là cải thiện tình trạng nghèo đói của cộng đồng và công tác tuyên truyền giáo dục sâu rộng, lâu dài trong cộng đồng; giải pháp này cũng cần gắn liền với tất cả các can thiệp khác để đảm bảo tính bền vững trong những chiến lược thanh toán bệnh vi chất dinh dưỡng. Trong các giải pháp phối hợp với đa dạng hóa bữa ăn, truyền thông có một vai trò rất quan trọng và hiệu quả trong quá trình nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc đa dạng hoá bữa ăn.
Đa dạng hóa bữa ăn được áp dụng ở những nơi có tỷ lệ thiếu vi chất thấp, tác
động chậm đến cộng đồng nhưng có tính bền vững cao.
+ Mục đích của đa dạng hoá bữa ăn:
- Tăng cường các loại thực phẩm cung cấp vi chất dinh dưỡng có giá trị sinh học cao, có trong các thức ăn có nguồn gốc từ động vật như tiết bò, heo, gan tim bò, gà, heo...
- Tăng cường các thực phẩm hỗ trợ hấp thu vi chất dinh dưỡng.
- Hạn chế các chất ức chế hấp thu những vi chất căn bản như sắt, kẽm và một số vi chất khác có trong thực phẩm.
- Cải thiện chế độ ăn: Chế độ ăn cung cấp được đầy đủ năng lượng và có đủ các thực phẩm giàu vi chất và năng lượng (thức ăn động vật, đậu đỗ...).
- Truyền thông là hoạt động khuyến khích và hướng dẫn cộng đồng, gia đình thực hiện đa dạng hóa bữa ăn, là một giải pháp quan trọng trong phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng [95, 106].
- Bữa ăn của người dân ở các vùng nông thôn, vùng khó khăn, còn thiếu về số lượng và chất lượng các chất dinh dưỡng. Theo điều tra gần đây của Viện Dinh dưỡng, lượng sắt cung cấp hàng ngày qua khẩu phần ăn của người dân Việt Nam chỉ đạt 50-
70% nhu cầu về sắt, các chất dinh dưỡng cần cho tạo máu (protein, các vitamin...) cũng chưa đạt nhu cầu khuyến nghị. Các nghiên cứu ở trên thế giới cho thấy có thể sử dụng một cách hiệu quả các hoạt động truyền thông lấy thính giả làm trọng tâm để bảo vệ và xúc tiến đa dạng hoá bữa ăn, qua đó cải thiện tình trạng thiếu máu dinh dưỡng.
- Cải thiện chế độ ăn: Chế độ ăn được cung cấp đầy đủ năng lượng và có đủ các thực phẩm giàu sắt (thức ăn động vật, đậu đỗ...). Làm tăng khả năng hấp thu sắt nhờ vitamin C có từ rau quả, thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ, khuyến khích các cách chế biến như nẩy mầm, lên men (dưa chua, giá đỗ...) làm tăng hàm lượng vitamin C và giảm lượng tanin, axít phitic có trong thực phẩm.
- Các hoạt động truyền thông cần tập trung tuyên truyền, phổ biến các loại thực phẩm giàu sắt có nguồn gốc từ động vật hay thực vật sẵn có tại địa phương. Hạn chế sử dụng các chất ức chế hấp thu sắt, tăng cường sử dụng các thực phẩm làm tăng khả năng hấp thu sắt.
- Truyền thông có thể giúp thay đổi tập quán sản xuất hướng tới đa dạng hóa sản phẩm thực phẩm tại chỗ ở tất cả các gia đình để tạo ra nhiều loại thực phẩm giàu sắt sẵn có ở địa phương và ở mỗi gia đình như tạo ra ô dinh dưỡn gia đình. Ô dinh dưỡng có thể là khu vực riêng trong VAC gia đình, cũng có thể là những mảnh đất tận dụng: các gia đình ở nông thôn dù quanh nhà đất hẹp cũng cố gắng tạo ra một ô dinh dưỡng trồng một số rau ăn hàng ngày: rau lá (rau muống, rau dền, rau ngót, rau mồng tơi, rau lang, rau bí...), rau quả (bầu, bí, mướp,...), quả chín (đu đủ, chuối...), gà vịt đẻ trứng. Ô dinh dưỡng tạo cơ sở có nguồn thực phẩm tại chỗ, góp phần cải thiện bữa ăn gia đình.
+ Truyền thông thay đổi tập quán tiêu thụ:
- Bữa ăn của người dân thường đơn điệu, chỉ đảm bảo làm sao no, ít chú ý đến làm sao ngon và nhiều chất bổ dưỡng. Vì vậy, tăng cường giáo dục kiến thức, thực hành dinh dưỡng thông qua các hội thi, các câu lạc bộ, vận động sự tham gia đông đảo các tổ chức đoàn thể, các hội Như hội Nông dân, Phụ nữ làm thế nào để mọi người dân biết và thực hiện tốt cách lựa chọn thực phẩm đa dạng sẵn có trên thị trường và các sản phẩm sẵn có ở địa phương.
- Tổ chức bữa ăn đa dạng có nhiều loại thực phẩm: hướng dẫn, động viên người dân tổ chức bữa ăn đa dạng gồm đầy đủ các loại thực phẩm từ cả nguồn động vật và thực vật.
- Cải thiện sắt cung cấp từ thực phẩm.
- Cải thiện sắt có giá trị sinh học từ thực phẩm bằng đa dạng hóa bữa ăn.
- Đối với an ninh thực phẩm nên chú ý đến phát triển ngành nghề, dịch vụ, tạo ra nhiều việc làm để tăng thu nhập, tăng cường sức mua thực phẩm, thực phẩm cần đa dạng nên chú ý đến các loại thực phẩm giàu sắt có nguồn gốc động vật, thực vật sẵn có tại địa phương như các loại đậu đỗ…
1.13.2. Giải pháp tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm (fortification)
Hiện nay còn tồn tại nhiều định nghĩa tăng cường vi chất (fortification) vào thực phẩm. Theo ủy ban tiêu chuẩn hóa quốc tế (Codex Alimentarius), định nghĩa tăng cường là thêm vào một hay nhiều chất dinh dưỡng cần thiết vào thực phẩm, mà chất này có thể có hay không có trong thực phẩm với mục đích phòng chống hay bù đắp sự thiếu hụt của một hay nhiều chất dinh dưỡng trong cộng đồng hay những đối tượng đặc biệt. Tại Việt Nam (Cục An toàn thực phẩm - Bộ Y tế), tăng cường vi chất vào thực phẩm là việc đưa thêm một lượng nhất định các vi chất dinh dưỡng vào trong thực phẩm với mục đích chống sự thiếu hụt vi chất thông qua đường ăn uống [21-23, 112].
+ Cơ sở của việc lựa chọn tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm:
- Tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm đó là một giải pháp lựa chọn hiệu quả trên thế giới, đã được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị và được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng.
- Thiếu vi chất dinh dưỡng có ảnh hưởng xấu đối với sự phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, mà đây là nhân tố thiết yếu cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt mục tiêu thanh toán các bệnh thiếu vi chất dinh dưỡng tại các Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng, trong đó giải pháp cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm là một giải pháp quan trọng.
- Việt Nam, với chế độ ăn lương thực chủ yếu là gạo, thành phần vi chất dinh dưỡng có trong khẩu phần thường thấp, lại có mặt nhiều yếu tố ức chế hấp thu. Do vậy, tăng cường vi chất vào thực phẩm là giải pháp quan trọng để cải thiện tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở Việt Nam. Tăng cường vi chất dinh dưỡng được xem là chiến lược dự phòng có hiệu quả cao. Trong những năm gần đây, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trong đó có sự phát triển của ngành công nghiệp thực phẩm nên các doanh nghiệp thực phẩm có đủ tiềm năng áp dụng và triển khai công nghệ tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm [112].
- Người dân có mức thu nhập cao hơn, sự giao lưu phân phối thực phẩm tốt hơn, nhu cầu tiêu thụ các thực phẩm chất lượng cao trở thành nhu cầu cấp thiết của người dân. Nghiên cứu hiệu quả bổ sung đa vi chất qua bột dinh dưỡng: thức ăn bổ sung cho trẻ được chế biến theo những phương pháp truyền thông ở các vùng nông thôn thường rất nghèo các chất dinh dưỡng, không đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cao của trẻ. Do vậy, đề tài sản xuất bột dinh dưỡng bằng những nguyên liệu phổ biến tại Việt Nam (gạo, ngô, đậu tương, mầm gạo…) được bổ sung thêm vi chất dinh dưỡng nhằm tạo ra loại bột giàu vi chất dinh dưỡng và năng lượng, phù hợp với khẩu vị và giá thành hạ đã được tiến hành tại Việt Nam [1, 4].
- Đề tài đã chứng minh bột được sản xuất từ các nguyên liệu thông thường, với quy trình công nghệ ở mức nhỏ như Viện Dinh dưỡng đảm bảo các tiêu chuẩn về dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Bổ sung một bữa bột (60 g/ngày) sẽ cung cấp 200 kcal, 30 -70% các vitamin và khoáng chất. Các đặc tính cảm quan: màu sắc, mùi, vị và độ đặc của bột (khi nấu chín) đã được bố mẹ của trẻ, cũng như các cháu chấp nhận [4].
- Sau 6 tháng ăn bột, trẻ có mức tăng chiều cao và cân nặng tốt hơn có ý nghĩa so với trẻ em nhóm chứng, trẻ em của nhóm can thiệp có nồng độ ferritin, kẽm và vitamin A huyết thanh cao hơn trẻ em ở nhóm chứng. Tỷ lệ trẻ thiếu máu, thiếu sắt, thiếu kẽm và thiếu vitamin A của trẻ em ở nhóm can thiệp thấp hơn có ý nghĩa trẻ em ở nhóm chứng. Trẻ ăn bột giảm được 32,5% nguy cơ bị thiếu máu; giảm 73,3% nguy cơ bị thiếu sắt, giảm 41,2% nguy cơ bị thiếu kẽm, và 14,8% nguy cơ thiếu vitamin A [4].
- Bổ sung sắt vào nước mắm trong phòng chống thiếu máu, thiếu sắt: Thiếu máu do thiếu sắt còn rất phổ biến ở phụ nữ tuổi sinh đẻ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Việc
đưa sắt vào nước mắm nhằm cung cấp một lượng sắt bổ sung hàng ngày là một hướng được Viện Dinh dưỡng và các tổ chức Quốc tế quan tâm chú ý. Với sự giúp đỡ kinh phí của Viện nghiên cứu đời sống quốc tế (ILSI), đề tài nghiên cứu về sản xuất thử nghiệm nước mắm tăng cường sắt, cũng như đánh giá hiệu quả cải thiện tình trạng thiếu máu trên cộng đồng đã được tiến hành. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra nước mắm có tăng cường sắt đảm bảo các đặc tính cảm quan, hoá học, vi sinh, được cộng đồng chấp nhận. Nhân dân 2 xã tại Nam Định sử dụng nước mắm trong thời gian 18 tháng đã có hiệu quả rất tốt làm giảm tỷ lệ thiếu máu (giảm 15,6%), nâng cao rõ rệt dự trữ sắt của cơ thể (15,6%). Kết quả của nghiên cứu đã được đánh giá cao và dựa trên kết quả này, Tổ chức GAIN đã hỗ trợ kinh phí để mở rộng phạm vi áp dụng trên nhiều địa bàn ở Việt Nam (giai đoạn 2005-2008) [100].
- Hiện nay ở Việt Nam có nhiều sản phẩm dinh dưỡng công thức cho trẻ em độ tuổi này, trong đó có kết hợp bổ sung selen cùng với sắt và các vi chất dinh dưỡng cho các độ tuổi từ 0 - 36 tháng tuổi được áp theo QCVN 11-1:2012/BYT; QCVN 11- 2:2012/BYT; QCVN 11-3:2012/BYT.
Ưu điểm của tăng cường vi chất dinh dưỡng và thực phẩm là làm cho thực phẩm nghèo vi chất dinh dưỡng trở nên giàu vi chất dinh dưỡng như mong muốn. So với các chiến lược khác dùng để phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng đây là một chiến lược rẻ nhất được ưu tiên và đảm bảo cho chiến lược dài hạn. Thuận lợi chính của chiến lược này là sự chấp nhận của người tiêu dùng đối với sản phẩm tăng cường. Chương trình tăng cường sắt vào thực phẩm đã được triển khai rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới. Hơn 20 quốc gia ở Châu Mỹ La tinh đã triển khai chương trình tăng cường sắt vào thực phẩm trên quy mô lớn, hầu hết liên quan đến các loại thực phẩm như lúa mì và bột ngô [112]. Nhược điểm cần phải có công nghệ chế biến phù hợp cùng với nguồn vi chất dinh dưỡng không dễ sẵn có tại địa phương, phụ thuộc vào khẩu phần ăn.
1.13.3. Bổ sung vi chất dinh dưỡng
Bổ sung vi chất dinh dưỡng là giải pháp cấp bách nhằm cải thiện nhanh tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở cộng đồng, những nhóm đối tượng có nguy cơ cao đã được xác định rõ và ở những nơi mà tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng còn ở tỷ lệ cao. Tuy nhiên, giải pháp này có nhược điểm là thiếu vi chất lại tái xuất hiện nhanh
chóng sau khi ngừng bổ sung nếu như chúng ta không đưa ra các giải pháp kế tiếp một cách kịp thời, nhanh chóng để cải thiện bền vững tình trạng thiếu vi chất tại cộng đồng. Chính vì vậy, muốn thành công ở giải pháp này đòi hỏi sự giám sát chặt chẽ và cộng tác triệt để của cộng đồng. Bên cạnh đó, nó đòi hỏi một cơ chế quản lý, điều hành và chi phí ít tốn kém. Ví dụ, chương trình phòng chống thiếu máu do thiếu sắt đã có nhiều đóng góp trong phòng chống thiếu máu do thiếu sắt trên cộng đồng ở các đối tượng có nguy cơ thiếu sắt cao như trẻ em, phụ nữ có thai, phụ nữ tuổi sinh đẻ. Các đối tượng cần bổ sung hàng ngày tuy hiệu quả nhưng rất phức tạp cho nên đến nay vẫn chưa có nhiều triển vọng. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, khi tỷ lệ thiếu vi chất được hạ xuống một mức độ nhất định thì bổ sung vi chất dinh dưỡng sẽ dần thay thế bằng một giải pháp có khả năng duy trì thật bền vững và được sự chấp nhận của cộng đồng [112].
Vậy tại sao giải pháp này đã mang lại lợi ích rõ rệt cho các đối tượng nguy cơ thiếu máu cao như vậy mà cho đến nay thiếu sắt vẫn là vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng và vì sao đã có nhiều nghiên cứu thử nghiệm thì thấy hiệu quả tốt nhưng lại chưa được áp dụng rộng rãi để phòng chống thiếu máu cho các đối tượng có nguy cơ cao? Có các lý do chính sau đây:
+ Thiếu chính sách của Chính phủ và các chương trình hỗ trợ, thiếu nhận thức về tính chất trầm trọng của căn bệnh [3, 95].
+ Thiếu sự hiểu biết rõ ràng giữa thiếu máu và thiếu sắt [56, 106].
+ Mức độ chấp nhận thấp của cộng đồng mà nguyên nhân hoặc do tác dụng phụ, hoặc do thiếu sắt cung cấp, độ bao phủ kém.
Đã có nhiều cải thiện để khắc phục tình trạng này như ở một số nước đã đưa giải pháp bổ sung viên sắt cho tất cả phụ nữ có thai là điều bắt buộc trong chiến lược phòng chống thiếu máu thiếu sắt của nhà nước, (như ở Indonesia) hoặc đã nghiên cứu các thử nghiệm giảm liều bổ sung để giảm các tác dụng phụ của việc bổ sung sắt nhưng vẫn giữ được hiệu quả cải thiện tình trạng sắt. Tuy nhiên, cho đến nay, giải pháp này vẫn còn đang là vấn đề chưa được ngã ngũ trên thế giới [106, 112].
Một số nghiên cứu khoa học đã được tiến hành trong khuôn khổ cấp nhà nước, cấp cơ sở, hợp tác quốc tế ... nhằm thử nghiệm các giải pháp cải thiện tình trạng thiếu
vi chất dinh dưỡng ở trẻ em, phụ nữ… ở Việt Nam. Các đề tài này đã được đánh giá cao về ý nghĩa khoa học trong nước cũng như quốc tế, đã góp phần thiết thực vào việc đưa ra những chiến lược can thiệp phù hợp cho các chương trình phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng tại Việt Nam trong những năm vừa qua [35, 36, 62, 107].
Về phòng chống thiếu máu thiếu sắt, thiếu vitamin A ở phụ nữ tuổi sinh đẻ: truyền thông tiếp thị, huy động cộng đồng sử dụng viên sắt phòng chống thiếu máu. Sử dụng viên sắt đều đặn là một biện pháp không thể thiếu trong phòng chống thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ, đặc biệt là phụ nữ có thai. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sử dụng viên sắt không cao do những nguyên nhân khách quan và chủ quan (mùi vị khó chịu của thuốc, đối tượng chưa hiểu biết về tác dụng và tầm quan trọng của phòng chống thiếu máu…) [36, 62].
Do vậy, tại hiệu thuốc có bán viên sắt với giá rẻ, hoặc viên sắt được phát cho các đối tượng nhưng tỷ lệ sử dụng không cao... đã góp phần làm cho mục tiêu hạ thấp tỷ lệ thiếu máu ở lứa tuổi này gặp nhiều khó khăn. Sau 2 năm thử nghiệm, kết quả cho thấy cộng đồng đã tham gia tích cực, trên 90% các đối tượng đích đã sử dụng viên sắt, tại tuyến cơ sở (xã, huyện) đã huy động được liên ngành tham gia như hội phụ nữ, thanh niên, y tế, giáo dục, chính quyền… Người dân đã tự giác bỏ tiền ra mua và sử dụng viên sắt, tỷ lệ thiếu máu đã giảm rõ rệt, mô hình có tính bền vững và có khả năng mở rộng trên các địa phương khác. Kết quả của nghiên cứu được đánh giá cao về giá trị khoa học cũng như khả năng áp dụng thực tế trong việc hạ thấp tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ hiện nay [36, 62].
Bổ sung sắt đường uống có đạt hiệu quả cải thiện nồng độ Hb ở nhóm trẻ 0-59 tháng thiếu máu hoặc thiếu sắt. Kết quả nghiên cứu của 26 thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng cho thấy việc bổ sung sắt đường uống cho trẻ từ 0-59 tháng ở các nước đang phát triển có liên quan đến lợi ích sức khỏe và giảm được các nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe. Ở nhóm trẻ thiếu máu hoặc thiếu sắt, nồng độ Hb đã được cải thiện khi bổ sung sắt [106].
Đối với những trường hợp thiếu máu, nồng độ Hb đều có hiện tượng tăng rất ổn định ở những trẻ được bổ sung sắt, cả những trẻ thiếu máu hoặc thiếu máu do thiếu sắt theo kết quả điều tra ban đầu. Sự cải thiện tình trạng thiếu máu hoặc tăng tình trạng sắt được ghi nhận ở cả nhóm trẻ thiếu sắt và đủ sắt theo kết quả từ điều tra ban đầu, mặc