LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đất nước ta đang trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, chúng ta cũng đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới; từng bước đạt được những thành tựu đáng tự hào trong phát triển kinh tế, xã hội; đời sống của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Cũng như các ngành kinh tế quốc dân khác, ngành thương nghiệp đang cố gắng hết sức để tiếp thu những tri thức tiên tiến trên thế giới nhằm bắt kịp với các nước phát triển. Kinh doanh siêu thị ra đời vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX chính là một xu thế tất yếu, đã làm thay đổi diện mạo ngành bán lẻ của đất nước. Giờ đây, người tiêu dùng Việt Nam được tiếp cận với một lĩnh vực kinh doanh bán lẻ văn minh, hiện đại và rất tiện nghi.
Trong một thời gian không xa, thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ phải mở cửa hoàn toàn cho các nhà bán lẻ nước ngoài (chính xác là 01/01/2009 theo những cam kết trong WTO). Như vậy, Việt Nam sẽ dành cho các phân phối nước ngoài sự đối xử bình đẳng như các nhà cung cấp dịch vụ phân phối trong nước. Vậy mà, Việt Nam hiện vẫn thiếu những công ty phân phối đủ lớn, đủ mạnh để có thể cạnh tranh với các tập đoàn siêu thị nước ngoài. Chỉ với sự am hiểu thị trường và ưu thế về mặt bằng kinh doanh vốn có thôi là chưa đủ. Trong cuộc cạnh tranh không cân sức về vốn và kinh nghiệm quản lý với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, các siêu thị Việt Nam cần có những chiến lược và biện pháp hữu hiệu. Trong bối cảnh hội nhập, ngành kinh doanh siêu thị bán lẻ của Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng gặp
không ít những nguy cơ và thách thức. Một yêu cầu tất yếu khách quan được đặt ra là các doanh nghiệp kinh doanh siêu
thị Việt Nam sẽ có những phương hướng, giải pháp hành động như thế nào để có thể nắm bắt các cơ hội và hạn chế nguy cơ mất dần thị phần ngay trên sân nhà. Vì vây, em đã quyết định chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là: “Hệ thống siêu thị của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập_Thực trạng và các đề xuất phát triển” với mong muốn đóng góp phần nào những hiểu biết của mình về siêu thị và kiến nghị một số giải pháp cho các siêu thị của Việt Nam.
2. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi của khóa luận này, em chỉ muốn đi sâu tìm hiểu hoạt động và năng lực cạnh tranh của các siêu thị của Việt Nam, trong mối tương quan so sánh với các siêu thị nước ngoài đã, đang và sẽ thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Mục đích bài luận văn của em là đem đến một cái nhìn khái quát về thực trạng phát triển hệ thống siêu thị của Việt Nam; phân tích SWOT cho hệ thống siêu thị của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập; để từ đó đưa ra những đề xuất phát triển hệ thống siêu thị của Việt Nam dựa trên kinh nghiệm phát triển và kinh doanh siêu thị của một số nước ở Châu Á.
Có thể bạn quan tâm!
- Hệ thống siêu thị của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập - thực trạng và các đề xuất phát triển - 1
- Phân Loại Theo Tính Chất Thật Ảo Của Siêu Thị
- Theo “Quy Chế Siêu Thị Và Trung Tâm Thương Mại” Bộ Thương Mại Việt Nam (Nay Là Bộ Công Thương Việt Nam)
- Top 10 Thị Trường Bán Lẻ Hấp Dẫn Nhất Thế Giới Năm 2007 8
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận, em đã sử dụng các phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh số liệu từ các cơ quan Nhà nước, Bộ ngành liên quan, các chuyên gia kinh tế và nghiên cứu thị trường. Ngoài ra, em cũng đã sử dụng kỹ năng phân tích, tổng hợp để đưa ra những giải pháp hoạt động thiết thực cho siêu thị trong bối cảnh hiện nay.
4. Bố cục luận văn
Khóa luận của em được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận về siêu thị trong bối cảnh hội nhập
Chương II: Thực trạng hệ thống siêu thị của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Chương III: Kinh nghiệm và một số đề xuất phát triển hệ thống siêu thị Việt Nam
Để hoàn thành đề tài khóa luận này, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn _ Thạc sĩ Trần Thu Trang. Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo của trường Đại học Ngoại Thương, những người đã tận tình truyền đạt để em có được hệ thống kiến thức cơ bản phục vụ quá trình viết luận văn tốt nghiệp, cũng như chuẩn bị hành trang vững chắc cho em sau khi ra trường.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ SIÊU THỊ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SIÊU THỊ TRÊN THẾ GIỚI
1. Lịch sử phát triển siêu thị trên thế giới
Theo cuốn “Fundamental Marketing” của Philip Kotler thì ông xem siêu thị có thể bắt nguồn từ 2 thời điểm:
Nguồn gốc thứ nhất: Năm 1912, John Hartford khai trương các cửa hàng thực phẩm, dưới sự quản lí của tập đoàn A&G. Ở đây, người ta chỉ bán hàng bằng tiền mặt và không có dịch vụ đưa hàng đến nhà.
Nguồn gốc thứ hai: Các cửa hàng có tên “Piggly – Wiggly”của Clarence Sunders lần đầu tiên được khai trương vào năm 1916. Các cửa hàng này được tổ chức dưới dạng tự phục vụ, có rào ngăn cách lối đi của người mua và các điểm thanh toán.
Phải đến những năm 30 của thế kỷ 20, siêu thị mới trở nên phổ biến. Cửa hàng “King Kullen” của Michael Cullen, xuất hiện vào ngày 4 tháng 8 năm 1930 ở Jamaika, Queens, New York được xem là siêu thị thực sự đầu tiên. Đây là cửa hàng thực phẩm tự phục vụ, bán hàng bằng tiền mặt, không đưa hàng đến tận nhà, có diện tích gần 560 m2 so với 75 m2 diện tích của các cửa hàng thông thường thời đó. Cullen đã quay vòng hàng khá nhanh để đảm
bảo tổng lợi nhuận là 9-10% doanh số bán, tức là mới bằng một nửa mức tổng lợi nhuận của các cửa hàng thực phẩm thời bấy giờ.1
1 http://www.kingkullen.com/aboutus.asp
Nguồn: http://www.kingkullen.com/aboutus.asp
Sau đó, rất nhiều siêu thị khác ra đời và bắt đầu phát triển mạnh. Vào đầu năm 1939, ở khắp nước Mỹ đã có khoảng 5.000 siêu thị, chiếm khoảng 20% tổng khối lượng buôn bán thực phẩm. Và đến những năm 1990 thì số siêu thị trên toàn nước Mỹ đã lên tới 37.000, chiếm khoảng 76% khối lượng buôn bán thực phẩm.
Sở dĩ các siêu thị có được thành công đó là nhờ vào một số nguyên nhân sau:
Tình trạng đình đốn của nền kinh tế buộc người tiêu dùng phải cân nhắc trước tiên đến vấn đề giá cả khi đi mua sắm. Trong khi đó, các nhà kinh doanh có khả năng mua hàng hóa với giá rẻ từ những người cung ứng cũng đang lâm vào cảnh tiêu thụ hàng hóa khó khăn và thuê mặt bằng với giá thấp. Vì vậy, họ có điều kiện thuận lợi để mở rộng, phát triển những cửa hàng và siêu thị giá rẻ.
Việc sử dụng ô tô cá nhân một cách rộng rãi và phổ biến đã đẩy vấn đề cự ly xuống hàng thứ hai và góp phần tạo ra thói quen mua hàng mỗi tuần một lần, do đó giảm nhu cầu mua sắm tại các cửa hàng nhỏ ở địa phương. Kết quả là người tiêu dùng muốn tìm đến các siêu thị giá rẻ tự phục vụ hơn là các cửa hàng nhỏ có giá bán hàng hóa cao hơn và họ chấp nhận đi xa hơn để mua khối lượng lớn hàng hóa thực phẩm dùng trong một thời gian dài.
Những tiến bộ trong ngành sản xuất tủ lạnh đã cho phép các siêu thị và những người tiêu dùng có thể bảo quản thực phẩm lâu hơn. Ngoài ra, kỹ thuật đóng gói mới cũng cho phép cung cấp cho người tiêu dùng những thực phẩm bảo quản được lâu hơn và dễ dàng hơn.
Tất cả những yếu tố đó cùng với tác động của quảng cáo đã kích thích việc tiêu thụ hàng hóa, giảm số lượng nhân viên bán hàng trong mỗi cửa hàng.
Cuối cùng là sự hợp nhất của các bộ phận bán thực phẩm, thịt, hàng nông sản vào cùng một nơi, tạo điều kiện mua hàng ở một chỗ và thu hút được người mua ở từ xa.
Siêu thị xuất hiện trước tiên ở nước Mỹ và cuối những năm 1940, đầu những năm 1950 thì hiện tượng siêu thị đã nhanh chóng lan sang Canađa và khu vực Bắc Mỹ. Vào những năm 1950, siêu thị được phát triển rất nhanh tại nhiều nước ở Châu Âu. Đến những năm 1960, siêu thị đã bắt đầu xuất hiện ở các nước đang phát triển ở vùng Trung Đông, Châu Á và Châu Mỹ Latinh.
2. Một số khái niệm về siêu thị
Thuật ngữ “siêu thị” tiếng Anh gọi là “supermarket”, tiếng Pháp gọi là “supermarché”, trong đó “super” là “siêu” và “market” hay “marché” là “chợ, thị trường”. Hiện nay, trên thế giới, mỗi nước lại có một cách hiểu khác nhau về siêu thị.
2.1. Khái niệm siêu thị tại Hoa Kỳ
Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng hoá bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt, các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa. 2
2 Philip Kotler (1961), “Fundamental marketing”, 2th Edition
Bên cạnh đó, họ còn đưa ra khái niệm ngắn gọn hơn là “ Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán nhiều mặt hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng phổ biến của người dân như thực phẩm, đồ uống, dụng cụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác.
2.2. Khái niệm siêu thị tại Anh
Siêu thị là cửa hàng bách hoá bán thực phẩm, đồ uống và các loại hàng hoá khác. Siêu thị thường đặt tại các thành phố hoặc dọc đường cao tốc hoặc trong khu buôn bán có diện tích khoảng từ 4.000 đến 25.000 bộ vuông3 ( tức là từ 371.6m2 đến 2322.5 m2)”.4
2.3 Khái niệm siêu thị tại Pháp
Siêu thị là cửa hàng bán lẻ theo phương thức tự phục vụ có diện tích từ 400 đến 2.500 m2, chủ yếu bán hàng thực phẩm và vật dụng gia đình”.5
Bên cạnh khái niệm về siêu thị, chúng ta còn biết đến khái niệm về “chuỗi siêu thị” và “hệ thống siêu thị”
“Chuỗi siêu thị” chỉ một tập hợp các siêu thị của một nhà phân phối được đặt ở các địa bàn khác nhau nhưng cùng áp dụng một phương thức kinh doanh thống nhất. Trong chuỗi siêu thị, mặt hàng, giá cả, phương thức quản lý quầy hàng, gian hàng, cách trưng bầy hàng hoá, biển hiệu và hình thức bên ngoài là tương tự nhau.
“Hệ thống siêu thị” dùng để chỉ mạng lưới cửa hàng bán lẻ hợp nhất áp dụng phương pháp bán hàng tự phục vụ những mặt hàng hoá dùng phổ biến của người dân.
3. Đặc điểm chung của siêu thị
3 Melvin Morgenstein & Harriet Strongin (1987), “Mordern Retailing – Management Principles and Practices”
4 “ Chuyển đổi đơn vị đo lường”: 1 bộ vuông = 0.0929m2
http://xaydungbk.net
5 Theo Marc Benoun (1997), “Marketing spécialisé”
Siêu thị thực hiện chức năng bán lẻ trực tiếp cho người tiêu dùng và như vậy trong mạng lưới phân phối, siêu thị là một hình thức tổ chức bán lẻ. Tính chất hoạt động của siêu thị cũng giống với các cửa hàng bán lẻ truyền thống: mua hàng với khối lượng lớn và trực tiếp bán cho người tiêu dùng với khối lượng nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu, nhu cầu tiêu dùng hàng ngày.
Tuy có nhiều khái niệm khác nhau về siêu thị nhưng nói chung, siêu thị có những đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, siêu thị là cửa hàng bán lẻ. Mặc dù được định nghĩa là “chợ” song siêu thị được coi là một loại “chợ” phát triển ở mức cao, được quy hoạch và tổ chức kinh doanh dưới hình thức những cửa hàng bề thế, có trang thiết bị và cơ sở vật chất hiện đại, do thương nhân đầu tư và quản lý, được Nhà nước cấp phép hoạt động. Siêu thị thực hiện chức năng bán lẻ – bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng chứ không phải để bán lại.
Thứ hai, siêu thị sáng tạo và áp dụng phương thức tự phục vụ. Có thể nói đây là đặc trưng nổi bật nhất để phân biệt siêu thị với các hình thức phân phối khác. Cần phân biệt giữa phương thức “tự chọn” và “tự phục vụ”:
- “Tự chọn”: khách hàng sau khi mua hàng hoá sẽ đến chỗ người bán để trả hàng, tuy nhiên trong quá trình mua vẫn có sự giúp đỡ, hướng dẫn của người bán.
- “Tự phục vụ”: khách hàng xem xét và chọn mua hàng, bỏ vào giỏ hoặc xe đẩy đem đi thanh toán tại quầy tính tiền đặt gần lối ra vào. Người bán không có mặt trong quá trình mua hàng.
Ở các nước phát triển, tự phục vụ đã trở thành công thức chung cho ngành công nghiệp. Tự phục vụ đồng nghĩa với văn minh thương nghiệp hiện đại. Tự phục vụ giúp doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí bán hàng, đặc biệt là chi phí tiền lương cho nhân viên bán hàng (thường chiếm tới 30% tổng chi phí kinh doanh). Tự phục vụ giúp người mua cảm thấy thoải mái khi