không được cấp giấy chứng nhận QSDĐ (trừ trường hợp thuê đất giữa Nhà nước với NSDĐ); (ii) Do không chuyển QSDĐ nên bên góp vốn, bên cho thuê vẫn có thể thực hiện các quyền khác của NSDĐ như tặng cho, để lại thừa kế, thế chấp; (iii) Góp vốn bằng QSDĐ và thuê đất đều có thời hạn, thời hạn góp vốn, thuê đất không được vượt quá thời hạn sử dụng đất.
Mặc dù, góp vốn bằng QSDĐ và thuê đất có điểm tương đồng, song hai hình thức này có nhiều điểm khác nhau. Với góp vốn, bên góp vốn dùng giá trị QSDĐ góp vốn và trở thành đồng sở hữu đối với bên nhận góp vốn. Thuê đất, bên cho thuê sử dụng tiền thuê vào mục đích khác mà không phải góp vốn. Do cùng mục đích kinh doanh, nên giữa bên góp vốn với bên nhận góp vốn có quan hệ chặt chẽ hơn so với giữa bên cho thuê và bên thuê đất. Bên góp vốn được hưởng lợi ích theo sự thỏa thuận giữa các bên và tỷ lệ tương ứng theo phần vốn góp mà không cố định như trong thuê đất.
Thứ hai, hình thức góp vốn có chuyển quyền sử dụng đất
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý. Ngoài diện tích đất do Nhà nước sử dụng vì mục đích công cộng, phần lớn đất đai do các chủ thể khác sử dụng. Nhà nước chuyển giao QSDĐ cho các chủ thể khác thông qua giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ. QSDĐ trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch là đối tượng của giao dịch trong đó có góp vốn. Trên phương diện này, góp vốn bằng QSDĐ giống với góp vốn bằng quyền sở hữu tài sản cho dù người góp vốn không có quyền sở hữu đất đai.
Mặc dù, Luật Đất đai năm 2013 không có quy định phân biệt hình thức góp vốn là quyền sử dụng đất đai và hình thức góp vốn là quyền sở hữu tài sản, nhưng căn cứ quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng góp vốn bằng QSDĐ được quy định trong Bộ luật Dân sự
năm 2015, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đất đai năm 2013 có thể thấy: Khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty”. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập. Về tài sản góp vốn có thể là đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất (khoản 1 Điều 35 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Với từng loại hình doanh nghiệp, pháp luật quy định về trình tự, thủ tục góp vốn khác nhau. Đối với tài sản đăng ký hoặc giá trị QSDĐ, thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (điểm a khoản 1 Điều 36 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Bên nhận góp vốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp bên nhận góp vốn là pháp nhân (khoản 3 Điều 732 Bộ luật Dân sự năm 2015). Theo khoản 10 Luật Đất đai năm 2013 thì: “Chuyển quyền sử dụng đất là việc chuyển giao quyền sử dụng đất từ người này sang người khác thông qua các hình thức chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất và góp vốn bằng QSDĐ”. Nhà nước cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất cho người được chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, được thừa kế… nhận góp vốn bằng QSDĐ (điểm c khoản 1 Điều 99 Luật Đất đai năm 2013). Tổ chức kinh tế, doanh nghiệp liên doanh nhận chuyển quyền sử dụng đất thông qua góp vốn bằng quyền sử dụng đất (điểm c khoản 1 Điều 169 Luật Đất đai năm 2013).
Với quy định trên cho thấy, hình thức góp vốn bằng QSDĐ trên phương diện quyền sở hữu tài sản là để thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp đã được thành lập. Đặc trưng của hình thức góp vốn này là có sự chuyển QSDĐ từ bên góp vốn sang bên nhận góp vốn. Khi góp vốn hoàn thành, tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà bên
góp vốn trở thành thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh; cổ đông của công ty cổ phần; xã viên của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Khi trở thành thành viên của công ty hoặc xã viên hợp tác xã, bên góp vốn có quyền tham gia hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Góp Vốn Bằng Quyền Sử Dụng Đất
- Ý Nghĩa, Vai Trò Của Góp Vốn Bằng Quyền Sử Dụng Đất Là Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Giai Đoạn Từ Khi Ban Hành Luật Sửa Đổi, Bổ Sung Một Số Điều Của Luật Đất Đai Năm 1998 Đến Trước Luật Đất Đai Năm 2003.
- Điều Kiện Để Vợ Chồng Sử Dụng Tài Sản Chung Là Quyền Sử Dụng Đất Để Góp Vốn
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Vợ Chồng Khi Góp Vốn Bằng Quyền Sử Dụng Đất Là Tài Sản Chung
- Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Góp Vốn Bằng Quyền Sử Dụng Đất Là Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
So với hình thức góp vốn không chuyển QSDĐ thì hình thức góp vốn này có một số điểm khác: (i) Bên góp vốn trở thành chủ sở hữu hoặc đồng sở hữu doanh nghiệp mới thành lập hoặc doanh nghiệp đang hoạt động, có quyền tham gia quyết định các vấn đề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, vốn góp bằng QSDĐ sẽ tăng theo giá trị của doanh nghiệp; (ii) Bên nhận góp vốn trong trường hợp này là doanh nghiệp mới thành lập hoặc doanh nghiệp đang hoạt động sẽ được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Bên nhận góp vốn có thể sử dụng QSDĐ thế chấp tại các tổ chức tín dụng để vay vốn nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh. Cũng như tài sản khác, khi góp vốn, QSDĐ không chỉ được phát huy trên phương diện sử dụng, mà còn được phát huy trên phương diện vốn; (iii) Ba là, so với hình thức góp vốn không chuyển QSDĐ, thì hình thức góp vốn này mang tính bền vững hơn. Do QSDĐ được chuyển sang doanh nghiệp mới nên việc chuyển nhượng, rút vốn ra khỏi doanh nghiệp chịu sự kiểm soát của các thành viên trong doanh nghiệp và sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản.
Hai hình thức góp vốn bằng QSDĐ có đặc thù riêng, nhưng pháp luật lại không có những quy định đặc thù áp dụng cho mỗi hình thức góp vốn nên thực tiễn áp dụng gặp rất nhiều vướng mắc, cụ thể như sau:
Một là, theo khoản 4 Điều 730 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì bên góp vốn được quyền hủy bỏ hợp đồng góp vốn và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu bên nhận góp vốn không thực hiện việc thanh toán lợi nhuận đúng thời hạn hoặc thanh toán không đầy đủ. Quy định này không phù hợp với hợp đồng góp vốn. Bởi lẽ, với góp vốn có chuyển QSDĐ, thì QSDĐ là tài sản của bên nhận góp vốn khi được cấp giấy chứng nhận
QSDĐ. Nếu bên nhận góp vốn vi phạm nghĩa vụ thanh toán lợi nhuận thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án kinh doanh, thương mại. Với góp vốn không chuyển QSDĐ thì căn cứ để hủy hợp đồng nêu trên cũng không phù hợp, bởi lẽ, khi góp vốn bằng QSDĐ bên nhận góp vốn phải đầu tư để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu chỉ vì nghĩa vụ chậm thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ mà hủy hợp đồng góp vốn bằng QSDĐ sẽ gây thiệt hại cho bên nhận góp vốn khi mà họ đã đầu tư tài sản trên đất và tài sản này không thể di dời.
Hai là, theo quy định tại khoản 3 Điều 730 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì bên góp vốn được nhận lại QSDĐ theo thỏa thuận hoặc theo khi hết thời hạn góp vốn. Quy định này chỉ phù hợp với góp vốn không chuyển QSDĐ. Đối với góp vốn bằng QSDĐ để thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp đã được thành lập, thì QSDĐ trở thành tài sản của doanh nghiệp hình thành từ góp vốn. Theo nguyên lý chung của góp vốn bằng quyền sở hữu tài sản, thì bên góp vốn không được nhận lại tài sản đã góp vốn. Việc nhận lại vốn góp được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp.
Ba là, theo khoản 2 Điều 730 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì bên góp vốn được chuyển nhượng, để lại thừa kế phần vốn góp bằng giá trị QSDĐ. Do không quy định cụ thể nên việc áp dụng quy định này đối với góp vốn không chuyển QSDĐ gặp nhiều vướng mắc. Trường hợp góp vốn không chuyển QSDĐ, di sản thừa kế của người góp vốn bao gồm phần đó là phần vốn đã góp và QSDĐ sau khi hết thời hạn góp vốn. Người góp vốn bằng QSDĐ có thể để lại thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Vì thế, di sản là phần vốn góp và QSDĐ có thể được chia cho
hai chủ thể khác nhau. Ví dụ, năm 2012 ông A góp vốn bằng quyền sử dụng 1.000 m2 đất trong thời hạn 20 năm trị giá 1 tỷ đồng với ông B để thành lập Công ty TNHH X, vốn góp của ông A tương đương với 50%
vốn điều lệ của Công ty X. Năm 2014, ông A chết, trước khi chết ông A lập di chúc để cho bà M được thừa kế phần vốn góp vào Công ty X. Do ông A góp vốn không chuyển QSDĐ nên QSDĐ sau khi hết hạn góp vốn sẽ được chia theo pháp luật. Trong khi các thừa kế theo pháp luật của ông A yêu cầu chia di sản thừa kế và chuyển nhượng QSDĐ trong khi bà M muốn kế thừa tư cách của ông A ở Công ty X. Vấn đề đặt ra, khi các thừa kế theo pháp luật của ông A không đồng ý để bà M tiếp tục góp vốn bằng QSDĐ tại tại Công ty X thì bà M có được tiếp tục góp vốn bằng QSDĐ hay không. Các thừa kế của ông A có bị hạn chế việc thực hiện QSDĐ đã góp vốn hay không.
Các quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất vốn đã rất mơ hồ trong BLDS 2005 như đã nêu ở trên, đã được xoá bỏ ở BLDS 2015, tuy nhiên, chưa có các quy định thay thế. Do đó, BLDS 2015 vẫn có nhiều lỗ hổng về vấn đề này.
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Ta có, tài sản của vợ chồng gồm tài sản chung của vợ chồng cũng tài sản riêng của vợ, chồng. Tài sản chung của vợ chồng là những tài sản mà cả vợ lẫn chồng cùng là chủ sở hữu đối với khối tài sản đó, và có thể phân chia. Ngoài ra, theo Điều 213 BLDS năm 2015, "Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung".
Luật đất đai năm 2013 [32] quy định cho người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh và góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Trong đó quyền được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất chưa được quy định cụ thể mà Luật đất đai 2013 chỉ quy định các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước giao đất phải trả tiền sử dụng đất, cho thuê đất mà trả tiền thuê đất cả thời gian thuê hoặc trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm, nếu thời hạn thuê đất đã
được trả tiền còn lại ít nhất 5 năm có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong thời hạn giao đất, cho thuê đất.
Đồng thời, cũng theo như quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất chính là một hình thức của chuyển quyền sử dụng đất [32].
Cùng với công cuộc "công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [53] đất nước, việc pháp luật quy định cho vợ chồng quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất có ý nghĩa vô cùng to lớn nhằm giúp người sử dụng đất giải quyết các nhu cầu về vốn để mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai. Quy định này góp phần chuyển quan hệ đất đai từ trạng thái "tĩnh" - giao đất và thu hồi đất sang trạng thái "động", đất đai từ chỗ chỉ là nơi cư trú của cộng đồng nay trở thành một nguồn lực to lớn để phát triển đất nước [14;78].
Thêm vào đó, việc vợ chồng được góp vốn bằng quyền sử dụng đất đã tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc "tiếp cận" các nguồn vốn vay để đầu tư cho sản xuất, đồng thời giúp hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng ở nước ta mở rộng tối đa phạm vi và đối tượng cho vay, nâng cao hiệu quả đồng vốn vay, góp phần trực tiếp vào công cuộc "xóa đói, giảm nghèo" và nâng cao năng lực cạnh tranh cho các chủ thể kinh doanh thuộc mọi loại hình kinh tế.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÀ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
2.1. Căn cứ pháp lý xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng
Theo các qui định hiện hành thì quyền sử dụng đất của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp được coi là tài sản chung của vợ chồng, hoặc là quyền sử dụng đất có trước thời kỳ hôn nhân nhưng hai vợ chồng thỏa thuận sáp nhập vào tài sản chung có thể là bằng văn bản, hoặc dưới hình thức là đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cả hai vợ chồng thì đó là quyền sử dụng đất chung của vợ chồng [38; Điều 33]
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Theo Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 qui định về Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng: “Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng” [38; Điều 33]. Vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cụ thể và đầy đủ hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là quyền sử dụng đất được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Quyền sử dụng đất của vợ chồng là tài sản chung có giá trị lớn, vì vậy pháp luật quy định khi tiến hành đăng ký phải ghi cả họ và tên của cả hai vợ chồng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với những trường hợp quyền sử dụng đất phát sinh trong thời kỳ hôn nhân mà chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng, thì theo Luật Đất đai năm 2013 [32] quy định các bên vợ hoặc chồng có quyền đi đăng ký lại đứng tên của hai vợ
chồng, trường hợp không đi đăng ký lại thì quyền sử dụng đất đó vẫn là tài sản chung của hai vợ chồng. Như vậy, khi xảy ra tranh chấp sẽ bảo vệ được quyền lợi của cả vợ và chồng và một phần bảo vệ hạnh phúc của gia đình. Nếu một trong hai bên xác định đó là tài sản riêng của mình thì phải có nghĩa vụ chứng minh [7;52].
Trong thực tế hiện nay chỉ có tài sản rất lớn rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới đứng tên cả hai vợ chồng như: nhà ở, quyền sử dụng đất. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên trong trường hợp quyền sử dụng đất do vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp mà trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng, nếu tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải có nghĩa vụ chứng minh là tài sản riêng, được tặng cho riêng, thừa kế riêng, hoặc có được từ nguồn tài sản riêng, nếu không chứng minh được thì đó là tài sản chung.
Như vậy, với quyền sử dụng đất của vợ chồng, về nguyên tắc trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi họ tên của cả vợ và chồng. Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 19/05/2014 quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất: “Trường hợp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của hai vợ chồng thì ghi họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân, địa chỉ thường trú của cả vợ và chồng” [6, Điều 4, khoản 1, điểm d]. Trên thực tế có nhiều trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên vợ hoặc chồng, do ảnh hưởng của truyền thống phong tục tập quán của các địa phương người đàn ông là trụ cột gia đình nên thường giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đứng tên người chồng. Để xác định quyền sử đất đó là tài sản chung hai vợ chồng hay riêng một bên thì phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác như: Xác định nguồn gốc của quyền sử dụng đất đó có phải phát