Khái Niệm Góp Vốn Bằng Quyền Sử Dụng Đất

thoả thuận của vợ chồng nhằm mục đích kinh doanh hoặc thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Ngoài ra, theo Điều 213 BLDS năm 2015, "Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung" [33; điều 213]

- Đặc điểm của tài sản chung của vợ chồng trong hôn nhân

Quan hệ HN&GĐ có tính chất đặc biệt không giống những hợp đồng, nghĩa vụ dân sự khác. Đây là quan hệ mà sự xác lập dựa trên yếu tố tình cảm. Những giao dịch về tài sản mà vợ chồng xác lập trong thời kì hôn nhân hầu như vì mục đích xây dựng gia đình. Vì thế, chế độ tài sản chung của vợ chồng có những nét đặc trưng cơ bản:

Thứ nhất, xét về chủ thể của quan hệ sở hữu thì các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của nhau. Do vậy, để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài việc có đầy đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi họ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật hôn nhân và gia đình.

Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, nhà nước bằng pháp luật quy định chế độ tài sản của vợ chồng đều xuất phát từ mục đích trước tiên và chủ yếu nhằm bảo đảm quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ và chồng. Những quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở tạo điều kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với tài sản của vợ chồng.

Thứ ba, căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản này phụ thuộc vào sự phát sinh, chấm dứt của quan hệ hôn nhân hay nói cách khác, chế độ tài sản của vợ chồng thường chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.

Chế độ tài sản được pháp luật ghi nhận, dù là chế độ tài sản theo thỏa thuận hay chế độ tài sản luật định đều nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng, tạo điều kiện để vợ, chồng có những cách “xử sự” theo yêu cầu của pháp luật và phù hợp với đạo đức xã hội.

Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có ý nghĩa nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng được liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng lực chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hay chế độ tài sản pháp định luôn được pháp luật quy định rõ. Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ và chồng của chế độ tài sản còn nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng. Là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau hoặc với những người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản cho các bên vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có nhiều điểm mới so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, trong đó có có điểm mới về chế độ tài sản của vợ chồng. Cụ thể, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 bổ sung quy định về các nguyên tắc chung trong áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng,

trong đó vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận [38].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, điều 34 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 qui định tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký theo quy định tại bao gồm quyền sử dụng đất, những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu [38;34].

Đối với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi tên của cả vợ và chồng.

Góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam - 3

Trong trường hợp tài sản chung được chia trong thời kỳ hôn nhân mà trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên cả vợ và chồng thì bên được chia phần tài sản bằng hiện vật có

quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài sản cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở văn bản thỏa thuận của vợ chồng hoặc quyết định của Tòa án về chia tài sản chung.

Về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận: trường hợp vợ chồng lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung: Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung; Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó; Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.

Trong trường hợp vợ chồng chọn chế độ tài sản theo luật định thì khi đó quyền sử dụng đất sẽ là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng nếu nó hình thành từ sản chung, hoặc được vợ chồng thống nhất nhập từ tài sản riêng vào tài sản chung. Còn nếu chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì khi đó quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ hoặc chồng nếu nó được hình thành từ nguồn tài sản riêng hay vợ, chồng tự thỏa thuận tách thành tài sản riêng.

- Đặc điểm của quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng

Quyền sử dụng đất khi xem xét dưới góc độ tài sản của vợ chồng cũng mang đầy đủ các đặc trưng của tài sản chung của vợ chồng. Cụ thể:

Thứ nhất: vợ chồng bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2014 ghi nhận nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt trong gia đình, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất [38]. Khi quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng thì không phân biệt là do vợ hay chồng tạo lập ra, „„của chồng công vợ‟‟, việc người chồng tạo lập ra cũng mặc nhiên

thừa nhận có công sức đóng góp của người vợ và ngược lại. Vợ chồng đều được hưởng phần bằng nhau là ½ giá trị của quyền sử dụng đất đấy. Pháp luật thừa nhận quyền sử dụng đất hình thành từ nguồn tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân được coi như là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất phải đăng kí quyền sử dụng mang tên cả vợ và chồng. Nếu chỉ một bên đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải có nghĩa vụ chứng minh đó là tài sản riêng của mình.

Vợ chồng với tư cách là đồng sở hữu có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc sử dụng quyền sử dụng đất. Tư cách đồng sở hữu ở đây còn được hiểu là mọi giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất phải được sự nhất trí, đồng thuận của cả vợ và chồng. Sự đồng thuận này tùy từng trường hợp có sự khác nhau. Ví dụ, trong trường hợp vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ tài chính theo qui định của pháp luật đất đai thì mặc nhiên được hiểu là cả vợ và chồng cùng thực hiện nghĩa vụ đó. Tuy nhiên đối với một số quyền năng liên quan đến quyền sử dụng đất như quyền chuyển nhượng, góp vốn, tặng cho quyền sử dụng đất... thì pháp luật qui định phải cả vợ và chồng cùng nhất trí, cùng kí kết trong hợp đồng theo luật định. Nếu chỉ có mình vợ hoặc chồng giao kết những hợp đồng trên, không có sự ủy quyền của người còn lại thì giao dịch sẽ vô hiệu do không đúng thẩm quyền. Điều này khác biệt so với quyền của người sử dụng đất là cá nhân.

Thứ hai: quyền tài sản khi một bên vợ (hoặc chồng) mất tích, bị hạn chế hay mất năng lực hành vi dân sự.

+ Trường hợp vợ hoặc chồng bị tuyên bố mất tích

Khi vợ hoặc chồng đã biệt tích (vắng mặt tại nơi cư trú) từ 2 năm liền trở lên, đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm mà vẫn không có tin tức xác thực của người đó (tức là Tòa án đã ra thông báo tìm kiếm như nói ở trên) thì những người liên quan, có thể là chồng (hoặc vợ), bố mẹ, con đã trưởng thành … có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố

người đó mất tích. Thời hạn 2 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó. Trường hợp Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất tích thì sẽ chỉ định người để quản lý tài sản cho người mất tích. Theo nguyên tắc tài sản của người trong thời gian mất tích không ai được phép định đoạt, sử dụng. Như vậy nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng, trong trường hợp một bên mất tích thì bên kia sẽ không được chuyển quyền sử dụng đất. Bởi tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất không chia được. Vợ hoặc chồng trong trường hợp này chỉ được quyền định đoạt phần tài sản của mình tương ứng với ½ giá trị quyền sử dụng đất đó.

+ Trường hợp vợ hoặc chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự Theo qui định tại khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2005 thì người bị

hạn chế năng lực hành vi dân sự là người nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và bị Toà án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan [33]. Trong BLDS năm 2015, nội dung này được qui định tại khoản 1,2 điều 24 [34; Điều 24].

Theo qui định tại Điều 24, Khoản 2 Bộ luật dân sự năm 2015 thì nếu vợ hoặc chồng là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố chồng hoặc vợ mình bị hạn chế năng lực [33]. Trong trường hợp này người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhất thiết phải có đủ điều kiện như một người giám hộ, dù luật không quy định rõ. Người này được chỉ định theo một quyết định của Toà án. Việc đại diện không phải được đăng ký tại UBND như việc giám hộ. Người vợ hoặc chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không hoàn toàn mất năng lực hành vi dân sự. Họ có thể tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Còn đối với các giao dịch khác đều chỉ có thể được xác lập và thực hiện với sự đồng ý của người đại diện.

Như vậy, việc chuyển quyền sử dụng đất của vợ chồng đối với một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự bắt buộc phải có sự đồng ý của người đại điện. Người đại diện có quyền thay mặt người được đại diện thực hiện các giao dịch vì quyền, lợi ích của họ. Người đại diện ở đây tùy trường hợp có thể là chồng hoặc vợ hoặc là người khác mà Tòa án chỉ định.

+ Trường hợp vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự

Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.

Nếu vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì mọi giao dịch về tài sản của người đó do người giám hộ xác lập, thực hiện. Nếu người giám hộ là vợ hoặc chồng thì quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng sẽ do 1 bên thực hiện nhân danh cho bên kia.

Tóm lại, Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là một loại quan hệ đặc biệt ràng buộc hai người, vốn đã gắn bó với nhau do hiệu lực của hôn nhân, nghĩa là có đăng ký kết hôn, liên quan đến tài sản, nói chung là đến các lợi ích vật chất có giá trị tiền tệ. Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, sự tồn tại của quan hệ tài sản giữa vợ và chồng lệ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân. Trong trường hợp hai người chung sống với nhau mà không kết hôn , nếu có xảy ra tranh chấp sẽ giải quyết theo thoả thuận của các bên [38;16]. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng bị thủ tiêu , trong trường hợp hai người chung sống với nhau có đăng ký kết hôn ,

nhưng sau đó hôn nhân bị hủy theo một bản án hoặc quyết định của Toà

án. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng chấm dứt , trong trường hợp hai người chung sống với nhau có đăng ký kết hôn , nhưng sau đó hôn nhân chấm dứt do ly hôn hoặc do có một người chết.

1.2.2. Khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất

Luật đất đai năm 2013 [32] quy định cho người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh và góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Trong đó quyền được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất chưa được quy định cụ thể mà Luật đất đai năm 2013 chỉ quy định các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước giao đất phải trả tiền sử dụng đất, cho thuê đất mà trả tiền thuê đất cả thời gian thuê hoặc trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm, nếu thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất 5 năm có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong thời hạn giao đất, cho thuê đất.

Đồng thời, cũng theo như quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất chính là một hình thức của chuyển quyền sử dụng đất [32].

Như vậy, có thể hiểu góp vốn bằng quyền sử dụng đất là trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất hợp pháp được Nhà nước cho phép góp vốn bằng quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh với cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác theo quy định của pháp luật.

- Khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng

Góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng là sự thỏa thuận giữa các bên trong đó có một bên là vợ hoặc chồng tuân theo điều kiện, nội dung, hình thức chuyển quyền sử dụng đất được Bộ luật Dân sự và pháp luật về đất đai quy định, theo đó vợ hoặc chồng đại diện góp phần vốn của mình bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của hai vợ chồng để sản xuất, kinh doanh với pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình, chủ thể khác.

- Đặc điểm của góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng

20

Thứ nhất, để có thể thực hiện việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì vợ chồng phải có quyền sử dụng đất hợp pháp, tức là phải được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất hợp pháp hoặc được thừa kế, nhận chuyển quyền một cách hợp pháp.

Thứ hai, ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý và Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước sử dụng ổn định lâu dài nên đối tượng của quan hệ góp vốn là quyền sử dụng đất chứ không phải bản thân đất đai. Sau khi góp vốn để sản xuất, kinh doanh thì quyền sử dụng đất trở thành tài sản của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp phá sản thì quyền sử dụng đất này bị xử lý để giải quyết các khoản nợ.

Thứ ba, giá trị vốn góp được xác định không chỉ bao gồm quyền sử dụng đất mà cả giá trị tài sản thuộc sở hữu của bên góp vốn gắn liền với đất. Vì thực tế sử dụng đất cho thấy đất đai luôn gắn liền với các tài sản trên đất và trong nhiều trường hợp giá trị của các tài sản này được thừa nhận chỉ khi nó gắn liền với đất.

Thứ tư, việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất không làm thay đổi quan hệ sở hữu đất đai bởi trong quan hệ góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì người góp vốn không phải là chủ sở hữu đất đai. Ngược lại, đối với các quan hệ góp vốn bằng các tài sản khác thì người góp vốn đồng thời là chủ sở hữu các tài sản này. Do đó, khi doanh nghiệp bị phá sản sẽ có sự thay đổi chủ sở hữu đối với các tài sản này thông qua việc xử lý phần tài sản vốn góp.

Thứ năm, góp vốn bằng các tài sản khác được thực hiện theo ý chí của chủ sở hữu và không bị pháp luật hạn chế về các điều kiện thực hiện. Trường hợp góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất chỉ được thực hiện trong thời hạn giao đất hoặc cho thuê đất.

Thứ sáu, quyền sử dụng đất được coi là một loại quyền về tài sản và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cơ sở pháp lý xác định quyền về tài

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 23/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí