dụng đối với môi trường chuyên biệt hoặc chăm sóc, giáo dục tại gia đình. Chúng rất khó áp dụng để dạy học tại các lớp hòa nhập.
Trong công trình nghiên cứu của mình Bruno Bettlheim cho rằng trẻ bị tự kỷ là do người mẹ bỏ mặc, vì người mẹ có học cao nên thiên về ứng xử lý trí hơn là tình cảm, sống lạnh lùng, không yêu con. Do cách sống thờ ơ đó nên những đứa con phản ứng lại bằng cách không muốn gần mẹ, không muốn ôm, hôn mẹ, không muốn nhìn vào mắt mẹ và không nói, đồng thời trẻ cũng ứng xử như vậy với người khác.
Nghiên cứu của Lorna Wing cũng chỉ ra rằng: trong sử dụng lời nói của trẻ tự kỷ, trẻ hoặc câm lặng suốt đời hoặc bắt chước tiếng kêu của loài vật, tiếng lạ hoặc lặp câu, lặp từ; ngữ điệu và việc làm chủ lời nói thì kì dị, đơn điệu, máy móc, đổi giọng không đúng chỗ… Trẻ dường như không nghe, không hiểu, không trả lời người khác. Trẻ chỉ nghe, hiểu trong tình huống trẻ muốn hoặc liên quan đến nhu cầu của trẻ.
M. Mahler cho rằng tự kỷ là biểu hiện sự không bình thường xuất phát từ mối quan hệ mẹ con. Đứa trẻ mới sinh ra có mối quan hệ cộng sinh hòa mình với người mẹ, đây là giai đoạn tự kỷ bình thường, sau đó đến giai đoạn chia cách cá nhân hóa (nảy sinh tâm lý cá nhân). Có một số rối loạn trong quá trình này, một điều gì đó không ổn trong giai đoạn tách mẹ và cá nhân hóa. Cơ chế tự kỷ gắn với sự mất khía cạnh hoạt hóa, mất sự phân biệt với cơ thể người mẹ, nên đứa trẻ không có sức sống, mất ham muốn về xã hội. Chức năng của trẻ tự kỷ mang ý nghĩa thái độ phòng vệ cơ bản của đứa trẻ, không thể xây dựng được cực định hướng đối với người mẹ. Đứa trẻ dính chặt vào người lớn và dùng họ như một bộ phận để kéo dài cơ thể nó. Đây là cách đứa trẻ gạt ra quyền năng của người mẹ trong giai đoạn đầu tiên.[36]
Tác giả Robert Rosine Le Eost cho rằng trẻ tự kỷ dạy cho chúng ta một điều gì đó mà ta cần nghe; thế giới của nó là thế giới tự phá hoại mình, nó chối bỏ thế giới xung quanh và tất cả mọi người làm xuất hiện hiện thực đối với nó như là một đồ vật. Trước gương nó cảm thấy một cái gì đó rất khủng khiếp; trẻ tự kỷ sống trong môi trường ngôn ngữ nhưng không có lời riêng của nó, lời nói chỉ là sự kết nối máy móc,
sự lặp lại mà nó không thể hiểu; trẻ tự kỷ tách biệt với người khác, không có nhu cầu giao tiếp với người khác và luôn cảm thấy mình như bị nuốt chửng trong ham muốn của mọi người.
Một số tác giả đã dày công nghiên cứu về vấn đề giáo dục hòa nhập:
M. Soder đã nghiên cứu thực hiện hòa nhập cho trẻ chậm phát triển trí tuệ. Ông cho rằng: Cần phải tập trung nghiên cứu để giúp trẻ tự tìm ra hoàn cảnh của mình thay thế cho việc đo đạc hiệu quả của công việc hòa nhập.
Cũng cùng quan điểm này, Irene Lospez đã nghiên cứu thành công “hòa nhập từ viễn cảnh học sinh”, ông xác định trong mục tiêu hòa nhập đấy là cộng đồng tinh thần đoàn kết, sự hiểu biết lẫn nhau, tham gia và giao tiếp.
Đề tài “Ưu và nhược điểm của giáo dục hòa nhập trẻ em rối loạn phổ tự kỷ” của Lindsay J. Vander WIELE đã phân tích và chỉ rõ: Trẻ rối loạn phổ tự kỷ phải có cơ hội được giáo dục cùng với trẻ bình thường ở mức độ tối đa, phù hợp và cần thiết. [41]
Có thể bạn quan tâm!
- Giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỷ theo mô hình kết hợp giữa trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật và trường mầm non - 1
- Giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỷ theo mô hình kết hợp giữa trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật và trường mầm non - 2
- Giáo Dục Hòa Nhập Cho Trẻ Tự Kỷ Lứa Tuổi Mầm Non
- Mục Tiêu Giáo Dục Hòa Nhập Cho Trẻ Tự Kỷ Lứa Tuổi Mầm Non Theo Mô Hình Kết Hợp Giữa Trung Tâm Giáo Dục Trẻ Khuyết Tật Và Trường Mầm Non
- Quy Trình Giáo Dục Hòa Nhập Cho Trẻ Tự Kỷ Lứa Tuổi Mầm Non Theo Mô Hình Kết Hợp Giữa Trung Tâm Giáo Dục Trẻ Khuyết Tật Và Trường Mầm Non
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Nghiên cứu về vấn đề đào tạo đội ngũ giáo viên giáo viên (Teacher for New Era Project - TNE)
) giáo viên
giáo viên
giáo viên
giáo viên ,…
Nhìn chung, mặc dù được nghiên cứu khá muộn, song vấn đề trẻ tự kỷ và giáo dục cho trẻ tự kỷ với hình thức hòa nhập đã được một số tác giả trên thế giới quan tâm nghiên cứu.
, hội chứng tự kỷ 20
trẻ tự kỷ. Trẻ tự kỷ
.
Công trình “Cách tiếp cận trẻ có rối loạn phổ tự kỷ dựa trên cộng đồng tại Bệnh viện Nhi đồng 1” do bác sỹ Phạm Ngọc Thanh, Đơn vị Tâm lí, bệnh viện Nhi Đồng 1 thực hiện đã cho thấy một phần thực trạng của trẻ tự kỷ và bước đầu hướng dẫn can thiệp trị liệu trẻ tự kỷ cho phụ huynh. [19]
Nghiên cứu “Tìm hiểu một số yếu tố gia đình và hành vi của trẻ tự kỷ” tại Khoa tâm thần Bệnh viện Nhi trung ương do bác sỹ Quách Thúy Minh và các cộng sự thực hiện đã chỉ ra có 55,5% trẻ tăng giao tiếp bằng mắt, 64,1% giảm tăng động và 77,8% giảm xung động nếu được tiến hành điều trị tâm vận động và có sự kết hợp của gia đình.[17]
Tại hội thảo: “Vấn đề gắn bó mẹ - con và trị liệu tâm lý cho cặp mẹ - con ở Trung tâm N - T Nguyễn Khắc Viện”, tác giả Nguyễn Minh Đức, Giám đốc Trung tâm N - T Nguyễn Khắc Viện đã trình bày kết quả nghiên cứu của mình về trẻ tự kỷ và khẳng định trẻ có khó khăn về gắn bó mẹ con là một lý do phổ biến khiến các bậc phụ huynh đưa con đến thăm khám và trị liệu tại Trung tâm N - T Nguyễn Khắc Viện. Tác giả đã trình bày về các đặc trưng Văn hóa của phương Đông và phương Tây, về thực trạng nuôi dạy con và đặc trưng gắn bó mẹ - con ở Việt Nam và Pháp cùng các đặc điểm mang tính phổ quát và đặc thù, từ đó phân tích sâu sắc những ảnh hưởng của các yếu tố đó lên quá trình xây dựng đời sống tâm lý cho trẻ thơ. Hội thảo đã nghe trình bày một ca lâm sàng, đó là trường hợp của một bé trai rất gắn mẹ đến mức không thể hoà nhập vào môi trường học đường. Bé còn mắc chứng không làm chủ được đại tiểu tiện mà các xét nghiệm y tế đều không tìm ra nguyên nhân thực thể. Người mẹ cũng bộc lộ một số khó khăn như hay phát động sự gắn bó liền kề da thịt với con, hay dùng loại gắn bó này để thưởng phạt… Sau khi được trị liệu theo phương pháp của Esther Bick, cặp mẹ con đã vượt qua được những khó khăn của mình và tìm lại được sự gắn bó an toàn, mở ra hướng đi mới cho trị liệu cho trẻ có nét tự kỷ.
Tác giả Nguyễn Minh Đức với công trình: “Những khoảnh khắc lóe sáng trong
tương tác mẹ - con của trẻ có nét tự kỷ” (2009). Trong công trình này tác giả đã phân tích những sai lầm cơ bản trong phương pháp chăm sóc và giáo dục con em, dẫn đến
sự gia tăng số lượng trẻ có nguy cơ. Đồng thời, tác giả cũng chia sẻ những kinh nghiệm cụ thể và bổ ích về cách quan sát, phát hiện những dấu hiệu chớm bất thường của trẻ và phương pháp can thiệp sớm nhằm phòng ngừa những hậu quả trầm trọng của các rối nhiễu tâm lý trong xã hội hiện đại. [11]
Luận văn thạc sỹ “Thái độ của cha mẹ đối với con có chứng tự kỷ” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Liên đã chỉ ra phần lớn cha mẹ của trẻ tự kỷ có thái độ tiêu cực đối với trẻ. Thái độ này xuất phát từ mặc cảm về khuyết tật của con mình. Thái độ này được thể hiện rõ trên ba phương diện: nhận thức, tình cảm và hành vi. Về phương diện nhận thức: đa số cha mẹ có hiểu biết về bản chất của chứng tự kỷ là không đầy đủ, một số người còn hiểu sai.Về phương diện tình cảm: cha mẹ một mặt thương con, muốn dành tình cảm cho con, mặt khác lại thấy lo lắng, thiệt thòi, tuyệt vọng về những gì mà họ phải gánh chịu. Về phương diện hành vi: nhìn hình thức bên ngoài người ta dễ lầm tưởng cha mẹ có hành vi tích cực song về bản chất đó là sự buông xuôi tiêu cực, thiếu khoa học trong việc giúp đỡ con chống lại chứng tự kỷ.
Với mục đích nhằm giúp trẻ tự kỷ tiến bộ, tác giả Nguyễn Thị Diệu Anh và cộng sự tại Đơn vị Tâm lý, bệnh viện Nhi Đồng 1 thực hiện nghiên cứu “Ứng dụng việc chăm sóc tại nhà cho trẻ có rối loạn tự kỷ”. Trong nghiên cứu này, tác giả đã cho thấy tính hiệu quả của phương pháp TEACH trong trị liệu trẻ tự kỷ.[1]
Trong công trình nghiên cứu: “Xây dựng mô hình trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật” của tác giả Lê Văn Tạc đã chỉ ra:
+ Xây dựng mô hình trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật phù hợp với điều kiện Việt Nam nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục trẻ khuyết tật.
+ Không khuyến khích phát triển hình thức giáo dục chuyên biệt, tách biệt.
+ Tăng cường và phát triển, xây dựng hệ thống giáo dục hòa nhập.
+ Xây dựng mới các trung tâm hỗ trợ giáo dục trẻ khuyết tật ở những nơi chưa có hoặc nâng cấp, chuyển đổi trường chuyên biệt thành các trung tâm hỗ trợ cho giáo dục hòa nhập.[18]
Tác giả Đào Thị Thu Thủy, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam với đề tài “Nghiên cứu hành vi ngôn ngữ của trẻ tự kỷ 5 - 6 tuổi” đã mô tả thực trạng hành vi ngôn ngữ của trẻ tự kỷ tuổi mẫu giáo nhằm giúp giáo viên hỗ trợ, chuyên gia giáo dục trẻ tự kỷ xác định được mức độ thực hiện hành vi ngôn ngữ của trẻ tự kỷ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ tự kỷ, giúp trẻ tham gia học hòa nhập.[26]
Đề tài “Nghiên cứu biện pháp can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập cho trẻ tự kỷ ở nước ta hiện nay và trong giai đoạn 2011-2020” do tác giả Nguyễn Thị Hoàng Yến làm chủ nhiệm đã đã triển khai và hoàn thành 4 nội dung: Nghiên cứu những vấn đề chung về tự kỷ; Vấn đề can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ; Vấn đề giáo dục hòa nhập trẻ tự kỷ; Các chính sách bảo trợ xã hội cho trẻ tự kỷ và gia đình. [33]
Ngày 25/07/2015 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Câu lạc bộ Sống cùng tự kỷ, Trung tâm Giáo dục sức khỏe thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập phối hợp tổ chức “Ngày hội kết nối”. Ngày hội kết nối nhằm giúp phụ huynh cập nhật thông tin về chính sách giáo dục dành cho trẻ tự kỷ, nâng cao nhận thức về giáo dục đặc biệt và giáo dục hòa nhập sau tiến trình can thiệp sớm.
Cuốn sách “Mô hình giáo dục hòa nhập cấp xã cho trẻ em khuyết tật - thực tiễn và triển vọng” do Trung tâm Tật học - Viện Khoa học giáo dục tổ chức biên soạn được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2002. Cuốn sách giới thiệu với những người quan tâm đến trẻ khuyết tật một số bài học kinh nghiệm về cách tổ chức lực lượng cộng đồng tham gia hỗ trợ và giáo dục trẻ em khuyết tật theo hướng hòa nhập.
Nhìn chung các nghiên cứu trong nước đã quan tâm đến vấn đề trẻ tự kỷ và trị liệu y học, giáo dục hòa nhập song chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề xây dựng mô hình kết hợp giữa trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật và trường mầm non trong giáo dục hòa nhập trẻ tự kỷ.
1.2. Khái niệm công cụ
1.2.1. Tự kỷ và hội chứng tự kỷ
1.2.1.1. Tự kỷ
Cho đến nay, các nhà khoa học trên thế giới đã đưa ra khá nhiều quan niệm về tự kỷ.
Thuật ngữ “autism - tự kỷ” do E. Bleuler (1911) đưa ra để chỉ sự mất tiếp xúc với thực tế dẫn tới mất khả năng giao tiếp hay rất khó giao tiếp với người khác.
Theo Freud: “Tự kỷ là sự đầu tư vào đối tượng quay trở lại cái tôi, có nghĩa là đã trở thành sự tự yêu, là sự ẩn náu của trẻ em trong thế giới bên trong huyễn tưởng và ảo ảnh để hỏi rằng cái tự trị ảo tưởng chỉ có thể được một thời gian, đối với chủ thể điều kiện phải có thêm vào đó sự chăm sóc của người mẹ”.
Theo Kanner 1943: “Tự kỷ là sự rút lui cực đoan của một số trẻ em từ lúc mới bắt đầu cuộc sống, triệu chứng đặc biệt của bệnh là một sự hiếm thấy, đó là sự rối loạn từ cội rễ, là sự không có khả năng của những trẻ này trong công việc thiết lập các mối quan hệ bình thường với những người khác và hành động một cách bình thường với các tình huống từ lúc chúng bắt đầu cuộc sống.” [37]
Theo từ điển bách khoa Columbia (1996): “Tự kỷ là một khuyết tật phát triển có nguyên nhân từ những rối loạn thần kinh làm ảnh hưởng đến chức năng cơ bản của não bộ. Tự kỷ được xác định bởi sự phát triển không bình thường về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tương tác xã hội và suy luận. Trẻ nam nhiều gấp 4 lần nữ giới mắc tự kỷ [33]. Trẻ có thể phát triển bình thường cho đến 30 tháng tuổi sau đó gặp phải một số rối nhiễu trong phổ tự kỷ [37].
Năm 1999, tại Hội nghị toàn quốc về tự kỷ ở Mỹ, các chuyên gia cho rằng nên xếp tự kỷ vào nhóm rối loạn lan tỏa và đã thống nhất đưa ra định nghĩa về tự kỷ cuối cùng như sau: “Tự kỷ là một dạng rối loạn trong nhóm rối loạn phát triển lan tỏa, ảnh hưởng đến nhiều mặt của sự phát triển nhưng ảnh hưởng nhất đến kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội”. [32].
Năm 2008, Liên hiệp quốc đưa ra khái niệm: “Tự kỷ là một loại khuyết tật phát triển tồn tại suốt đời, thường được thể hiện ra ngoài trong ba năm đầu đời. Tự kỷ là do một rối loạn thần kinh ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của não bộ gây nên, chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em và người lớn ở nhiều quốc gia không phân biệt giới tính, chủng tộc hoặc điều kiện kinh tế - xã hội. Đặc điểm của nó là sự khó khăn trong
tương tác xã hội, các vấn đề về giao tiếp bằng lời nói và không bằng lời nói, và có các hành vi, sở thích và hoạt động lặp đi lặp lại và hạn hẹp”. [32].
Các khái niệm có khác nhau nhưng đều thống nhất ở các nội dung cốt lõi của khái niệm tự kỷ: “Tự kỷ là một dạng khuyết tật phát triển, được đặc trưng bởi ba khiếm khuyết chính về giao tiếp, tương tác xã hội và có hành vi, sở thích mang tính hạn hẹp lặp đi lặp lại”.
1.2.1.2. Hội chứng tự kỷ
Hội chứng tự kỷ (Autism) bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là “Autos” có nghĩa là “tự bản thân”. Hội chứng tự kỷ là hội chứng rối loạn phát triển lan tỏa do bất thường của não bộ, xuất hiện sớm trong những năm đầu đời của trẻ em với những biểu hiện đặc trưng ở các lĩnh vực: kém tương tác xã hội, bất thường về ngôn ngữ, giao tiếp và hành vi.
Khái niệm hội chứng tự kỷ được đề cập đầu tiên vào năm 1943 do bác sĩ người Mĩ gốc Áo - Leo Kanner thực hiện. Khi đó hội chứng tự kỷ được ông mô tả như một chứng rối loạn tâm thần hiếm gặp ở trẻ em. Các đặc điểm được Leo Kanner mô tả bao gồm:
- Thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt tình cảm với người khác.
- Thể hiện cách chọn lựa các thói quen hàng ngày rất giống nhau về tính cách tỉ mỉ và kì dị.
- Không hề nói hoặc cách nói khác thường rõ rệt.
- Rất ham thích xoay vặn các đồ vật và thao tác khéo léo.
- Có khả năng ở mức cao về nhìn nhận không gian hoặc giỏi như vẹt.
- Trái ngược với tình trạng khó khăn trong việc học tập các lĩnh vực khác.
- Hình thức bề ngoài có vẻ hấp dẫn, nhanh nhẹn, thông minh. Hội chứng tự kỷ thường gặp ở trẻ nam cao gấp 4 lần ở trẻ nữ.
1.2.2. Phát hiện sớm trẻ tự kỷ
Phát hiện sớm là quá trình sử dụng các kỹ thuật, biện pháp sàng lọc giúp nhận biết dấu hiệu của tự kỷ, phổ tự kỷ trên trẻ dưới 3 tuổi. Sớm nhất có thể là 6 - 18 tháng. Những trường hợp được khẳng định là tự kỷ ở độ tuổi dưới 18 tháng là những trường hợp tự kỷ điển hình. Những trường hợp bị phát hiện muộn thường do trẻ bị tự
kỷ nhẹ, do thiếu hiểu biết về các mốc phát triển bình thường về ngôn ngữ và hành vi của trẻ đặc biệt do các dấu hiệu để xác định tự kỷ chưa rõ ràng.
Để phát hiện sớm trẻ tự kỷ có thể căn cứ vào các dấu hiệu sàng lọc trẻ tự kỷ. Dấu hiệu sàng lọc là những dấu hiệu chỉ ra rằng trẻ có nguy cơ cao bị tự kỷ. Những dấu hiệu này được Baron - Cohen, Allen và Gilber sử dụng từ năm 1992 để sàng lọc trong 12000 trẻ em ở độ tuổi 18 tháng tuổi. Terylynn Tyrel - Tiến sĩ khoa Giáo dục Đặc biệt, Đại học John Hopkin, năm 2006 đã biên soạn ra 9 dấu hiệu dưới đây từ rất nhiều nghiên cứu khác. Đây là bộ câu hỏi sàng lọc tự kỷ ở trẻ dưới 18 tháng, được sử dụng rộng rãi trên thế giới:
Các dấu hiệu sàng lọc phát hiện tự kỷ:
Biết khoe; Mắt nhìn linh hoạt, phù hợp; Biết thể hiện nét mặt ấm áp, vui sướng; Quay lại khi được gọi tên; Chia sẻ mối quan tâm/ thích thú; Phối hợp các kỹ năng giao tiếp không lời; Thể hiện các hành vi bất thường; Các cử động hoặc tư thế lặp lại của cơ thể?
Viện Hàn lâm Thần kinh học của Mĩ đã đưa ra các dấu hiệu báo động của tự kỷ là những trẻ:
(1). Không bi bô, không biết dùng cử chỉ vào khoảng 12 tháng. (2). Không biết nói từ đơn lúc 16 tháng.
(3). Không biết đáp lại khi được gọi tên.
(4). Không tự nói được câu có hai từ lúc 24 tháng.
(5). Mất kỹ năng ngôn ngữ hoặc xã hội vào bất kì độ tuổi nào. [13]
1.2.3. Can thiệp sớm trẻ tự kỷ
Can thiệp sớm là sự hướng dẫn sớm (mang tính giáo dục) cho trẻ và gia đình trẻ. Can thiệp sớm trong 5 năm đầu có thể làm tăng chất lượng cuộc sống cho trẻ và gia đình trẻ. Đây chính là sự chuẩn bị quan trọng cho việc học và tiếp tục học lên lớp mẫu giáo sau này của trẻ, đồng thời can thiệp sớm cũng chuẩn bị tiền đề để trẻ có thể học hội nhập tại các trường phổ thông. Can thiệp sớm là những chỉ dẫn ban đầu và các dịch vụ dành cho trẻ và gia đình trẻ khuyết tật trước tuổi tiểu học nhằm kích thích