Nhân cách văn hóa là một khái niệm mới và rất khó, cho nên ở đây chúng tôi muốn dựa theo quan niệm của GS.TSKH Tâm lý học Phạm Minh Hạc để trình bày rõ hơn về các khái niệm này [21].
Theo ông, để hiểu nhân cách văn hóa là gì, trước hết cần phân biệt mấy khái niệm như: con người, cá thể, cá nhân, nhân cách. Đây là những khái niệm mà trong đời sống thông thường người ta hay dùng lẫn lộn.
Trong khoa học, người ta xem con người là tác phẩm kỳ diệu của thiên nhiên, là một vũ trụ nhỏ theo quan niệm "nhân thân - tiểu vũ trụ". Con người là kẻ sáng tạo ra lịch sử, văn hóa, đồng thời là sản phẩm của lịch sử văn hóa, văn minh nhân loại. Khi là đại diện cho loài, con người được gọi là cá thể (cá thể/loài). Khi là thành viên của một xã hội, nó được gọi là cá nhân (cá nhân/xã hội). Khi là chủ thể của hoạt động sáng tạo, con người được gọi là nhân cách (nhân cách/chủ thể của hoạt động).
Khi con người hoạt động, nó phải vận dụng tâm lý của bản thân, (nhận thức, tình cảm, ghi nhớ và chú ý, tính khí và tâm trạng, lời nói và việc làm...). Chừng nào những hiện tượng tâm lý ấy có thái độ riêng, và các thái độ riêng này bền vững, ổn định như các thuộc tính của chủ thể, khi đó các thái độ ấy trở thành diện mạo tâm lý của con người này. Như vậy, nhân cách là tổ hợp các thái độ - thuộc tính riêng trong quan hệ với hành vi ứng xử (nói năng, đi đứng, cư xử...), hành động, hoạt động với thiên nhiên với đồ vật, người khác, cộng đồng, xã hội và bản thân. Đó chính là hệ thống thái độ làm nên diện mạo tâm lý, tức nhân cách của con người.
Và, khi nào hệ thống thái độ ấy phản ánh và chứa đựng các giá trị văn hóa của các cộng đồng (mà cá nhân ấy sở thuộc vào), chủ yếu là cộng đồng dân tộc - quốc gia, khi ấy ta có nhân cách văn hóa.
Từ góc độ văn hóa, nhân cách văn hóa có thể hình dung như là diện mạo tâm lý người lao động sáng tạo, người đại biểu mang vác hệ giá trị và chuẩn mực xã hội của một cộng đồng xã hội nhất định (ở đây là cộng đồng dân tộc - quốc gia). Đặc điểm ưu trội của nhân cách văn hóa có thể biểu hiện ở năng lực sáng tạo của nó. Lao động sáng tạo trong văn hóa như là hình thức tự khẳng định, tự bộc lộ và phát huy "các lực lượng bản chất người" (K.Marx) của nhân cách văn hóa.
Vấn đề xây dựng văn hóa suy cho cùng, là vấn đề con người văn hóa, nhân cách văn hóa. Hồ Chí Minh là Một nhà văn hóa - một nhân cách văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. ở con người Bác, nhân cách văn hóa được thể hiện trước hết là các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, và điều quan trọng, nó luôn tỏa sáng, ảnh hưởng tới trong cuộc sống mọi con người Việt Nam nói riêng và làm rung động không ít tâm hồn con người các dân tộc trên thế giới.
Để phát triển toàn diện con người, hình thành nhân cách văn hóa ở con người, đặc biệt ở lứa tuổi VTN, vai trò của Văn hóa và Giáo dục là cực kỳ to lớn và có ý nghĩa then chốt trong thời kỳ phát triển CNH, HĐH của đất nước. Đưa các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc - hiện đại vào giáo dục gia đình, nhà trường nhằm phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và văn hóa văn minh nhân loại, hình thành nhân cách văn hóa cho thế hệ trẻ là đã đưa Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) của Đảng vào cuộc sống.
1.1.3 Khái niệm giáo dục
V.I. Lênin coi giáo dục là phạm trù tất yếu và vĩnh hằng liên quan chặt chẽ với sự phát triển xã hội loài người. Điều đó có nghĩa là giáo dục xuất hiện khi bắt đầu có xã hội, đồng thời giáo dục cũng được quy định bởi nhu cầu xã hội. Giáo dục gắn liền với sự phát triển xã hội, do đó nó mang tính lịch sử - cụ thể và tính kế thừa - phát triển.
Có thể bạn quan tâm!
- Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường - 1
- Nội Dung Giáo Dục Hệ Giá Trị Truyền Thống Văn Hóa Thông Qua Hệ Khuôn Mẫu Văn Hóa Ứng Xử
- Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Giáo Dục Giá Trị Truyền Thống Văn Hóa Ở Tuổi Vtn Và Vai Trò Của Giáo Dục Giá Trị Vhtt Trong Xây Dựng Nhân Cách Văn
- Thái Độ Của Giáo Viên, Phụ Huynh Và Vị Thành Viên Về Truyền Thống Dân
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Giáo dục, theo nghĩa rộng nhất là sự tác động của xã hội toàn bộ đến con người. Giáo dục được bao gồm giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội và tự giáo dục. Giáo dục là quá trình chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống xã hội. Trong quá trình này thế hệ trẻ phải tiếp nhận những gì mà xã hội tích lũy được (tri thức, kỹ năng sống, kỹ năng lao động, những chuẩn mực hành vi trong gia đình xã hội và thiên nhiên...). Thế hệ trẻ phải có những phẩm chất cần thiết để giải quyết những nhiệm vụ mới của thời đại mình đặt ra.
Như vậy, có thể nói rằng, giáo dục là quá trình các thế hệ đi trước truyền đạt cho thế hệ mới những kinh nghiệm lịch sử - xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ mới cuộc sống lao động và kỹ năng sống đảm bảo cho xã hội tiếp tục phát triển.
Nói về vai trò quan trọng của giáo dục, trong tuyên bố của AIA (Năm quốc tế chống mù chữ) có nêu "Giáo dục là quan trọng, nó là một sinh lực tác động lên mọi mặt của đời sống. Giáo dục là điều kiện hết sức thiết yếu, thậm chí chính là động lực của tiến bộ... Giáo dục, tóm lại, vừa là thước đo, biện pháp và ý nghĩa của sự phát triển".
ở nước ta, vai trò của giáo dục được tinh thần Đại hội IX của Đảng đề cập nhằm "phát huy nguồn lực con người" - một yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển "nguồn lực con người" (hoặc nguồn nhân lực, hoặc nguồn tài nguyên con người (Human Resourees Development - HRD), về cơ bản, cần được hiểu là sự gia tăng giá trị cho con người về mọi mặt: đạo đức, trí tuệ, thể chất, kỹ năng, tâm hồn... để hình thành nhân cách văn hóa. Đó chính là những năng lực, phẩm chất mới của con người mà giáo dục phải đảm nhận nhằm đáp ứng những yêu cầu to lớn của đất nước và thời đại.
Thời đại ngày nay, trên toàn cầu, cũng như ở nước ta, không ai không thấy rõ vai trò hết sức quan trọng của giáo dục. Theo GS.TS Phạm Minh Hạc trong báo cáo tổng kết sau ba năm làm việc của ủy ban chuẩn bị giáo dục đi vào thế kỷ XXI của tổ chức giáo dục, khoa học, văn hóa của liên hiệp quốc (UNESCO) nêu ra 4 mục tiêu (nguyên lý) của nền giáo dục tương lai của nhân loại là: 1) Học để biết; 2) Học để làm; 3) Học để chung sống; 4) Học để làm người, để tự khẳng định mình [21, tr. 52].
Dưới góc độ văn hóa, giáo dục chính là nơi gìn giữ, truyền thụ và phát huy hệ thống giá trị truyền thống dân tộc và nhân loại. Giáo dục đào tạo ra các thế hệ tiếp nối và sáng tạo các giá trị. Hơn nữa, giáo dục ngày nay đang phát triển theo xu hướng Học đi đôi với Hành. Trên cơ sở tri thức tiếp nhận được (ở trường lớp, tự học) con người phải hình thành được các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, để có một khả năng thực hành trong cuộc sống, sáng tạo ra các giá trị trong cuộc sống. Hay nói khác đi, chức năng của nhà trường ngày nay không thể chỉ dừng lại ở việc chuyển giao tri thức cho thế hệ trẻ mà mục tiêu đặt ra là con người biết làm cho tri thức mang lại hiệu quả xã hội. Vì vậy, nếu trước đây kết luận của khoa học giáo dục về bản tính người là sản phẩm của quá trình hoạt động liên tục nhằm có được tri thức, kỹ năng và thái độ thì lý luận giáo dục ngày nay xếp
giáo dục thái độ lên hàng đầu, rồi mới đến tri thức và kỹ năng. Có nghĩa là con người ngày nay cần có những năng lực, trí lực lựa chọn những giá trị đồng thời cũng sáng tạo ra những giá trị mới thông qua những phương thức giáo dục mang tính lý luận thay vì những phương thức giáo dục truyền thống mang tính trao truyền bằng kinh nghiệm. Bởi xã hội khoa học công nghệ và thông tin phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy như ngày nay thì việc giáo dục bằng trao truyền kinh nghiệm là khó đáp ứng yêu cầu thời đại. Như vậy, lý luận giáo dục ngày nay đưa nhân cách văn hóa lên nhiệm vụ hàng đầu, biến học vấn thành văn hóa. ở cấp ấu thơ và cấp "cơ sở" giai đoạn khởi đầu hình thành nhân cách con người lấy phương thức giáo dục "Tiên học lễ - Hậu học văn". ở cấp phổ thông trung học, giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách lấy phương thức giáo dục liên thông kết hợp giáo dục học vấn với giáo dục hướng nghiệp, định nghiệp, lập nghiệp. Đó là "phương thức giáo dục trực tiếp phục vụ phát triển bền vững, phát triển nguồn lực người, qua đó trực tiếp phục vụ phát triển xã hội - kinh tế. Hoạt động học tập gắn liền với hoạt động lao động, sáng tạo ra mọi giá trị cuộc sống" [21, tr. 52].
1.1.4. Khái niệm giá trị
Trước khi đi vào khái niệm giá trị, chúng tôi xin lưu ý tới các định nghĩa văn hóa đã được nêu ở trên đều nhắc đến một khái niệm cốt lõi là giá trị, hệ giá trị. Điều đó chứng tỏ rằng, nói văn hóa là đề cập đến giá trị, chí ít cũng từ góc nhìn xã hội học mà đề tài tiếp cận. Hệ giá trị chính là nội dung, là yếu tố thực thể của văn hóa. Nhưng giá trị là gì? nội hàm của giá trị là thế nào?
Cho đến nay, đã có không ít những định nghĩa, những quan niệm khác nhau về giá trị được xuất phát từ những góc độ tiếp cận khác nhau: toán học, kinh tế học, ngôn ngữ học... ở góc độ văn hóa học, đối tượng nghiên cứu là nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa thì giá trị phải là những giá trị xã hội. Giá trị xã hội là những cái có ý nghĩa tích cực, tiến bộ, hữu ích được đa số người trong xã hội mong ước và cùng chia sẻ. Hay nói khác là, giá trị mà cộng đồng xã hội chấp nhận là dựa trên sự đánh giá của đa số các thành viên trong cộng đồng ấy về những cái mà họ khát khao như cái đẹp, cái tốt, cái đúng, cái có ích, ngược lại, những cái họ không mong muốn như cái xấu, cái tồi tệ, cái có hại bị coi là những phản giá trị. Như vậy giá trị ở đây là sự biểu thị của tình cảm cộng
đồng, sự đánh giá của cộng đồng, chứ không phải dựa vào sự đánh giá của cá nhân. Vì vậy, về nguyên tắc, giá trị là cái mang tính xã hội.
Một yếu tố nữa của giá trị được thừa nhận khá phổ biến coi giá trị như những quan niệm về cái đang mong muốn có ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn. Vì vậy, để tìm hiểu giá trị người ta thường gắn nó với nhu cầu. Chính nhu cầu tạo nên động cơ hành động và hành động được biểu thị như là sự lựa chọn giá trị ở mỗi con người. Đến đây có thể hiểu nội hàm của khái niệm giá trị "Bất cứ sự vật nào đó cũng có thể xem là có giá trị, dù nó là vật thể hay phi vật thể, miễn là nó được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó như một nhu cầu trong đời sống của cộng đồng, của đời sống con người".
Giá trị có tính lịch sử khách quan. Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố, nhận thức, tình cảm, sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể. Giá trị phản ánh khách quan lợi ích xã hội của mỗi nhóm, cộng đồng hay giai cấp, vì thế nó gắn liền với ý thức xã hội. Trong mỗi chế độ, mỗi giai đoạn lịch sử xã hội có một hệ thống và thang giá trị khác nhau, nó được tạo bởi hoàn cảnh xã hội và những đặc điểm riêng của xã hội đó..
Giá trị xã hội có mối quan hệ mật thiết với chuẩn mực xã hội. Nếu giá trị là cái ngầm ẩn (các nhu cầu) thì chuẩn mực là cái hiện thực hóa giá trị trong hiện thực. Chuẩn mực xã hội (CMXH) là những yêu cầu mang tính tiêu chuẩn của xã hội đối với hành động của cá nhân, đòi hỏi mỗi cá nhân trong xã hội phải tuân theo. CMXH được thể hiện thành những quy tắc, tiêu chuẩn, phương hướng khuôn mẫu ứng xử của con người. CMXH là sự kết tinh cao của các khuôn mẫu mà con người phải theo.
Hệ thống chuẩn mực xã hội là hệ quy chiếu để cho xã hội hoạt động và duy trì trạng thái ổn định của nó. Bởi thế CMXH thể hiện rõ tính quy định của khuôn mẫu của tính thể chế và pháp lý. Nó điều tiết hành động con người, xác lập những nguyên tắc hành động của con người trong từng lĩnh vực hoạt động khác nhau: chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực giáo dục, chuẩn mực pháp chế...
Trong thang giá trị của CMXH lại chia cấp độ có cái chính, có cái phụ và cái phái sinh. Giá trị chính là giá trị chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động xã hội, đồng thời là giá trị định hướng, lý tưởng chung của toàn xã hội.
Định hướng giá trị là một trong những biến đổi rõ của đặc trưng xu hướng nhân cách và có ý nghĩa hướng dẫn hoạt động của con người. Định hướng giá trị mang đậm tính lịch sử - xã hội của cả cộng đồng, nét riêng của mỗi dân tộc và những nét đặc thù của các nhóm xã hội, các nhóm tuổi, giới, nghề nghiệp, tôn giáo, địa phương khác nhau.
Bất cứ một xã hội nào, một thời kỳ lịch sử nào cũng có những chuẩn giá trị xã hội và định hướng xã hội nhằm duy trì sự ổn định xã hội và cũng để quản lý xã hội.
1.1.5. Khái niệm truyền thống văn hóa và giá trị truyền thống văn hóa
- Khái niệm truyền thống
Truyền thống vốn là một từ Hán - Việt. Trong cuốn Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh "Truyền thống: đời nọ truyền xuống đời kia". Trong từ điển tiếng Việt phổ thông truyền thống được định nghĩa là "thói quen hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác".
Theo quan niệm của các nước phương Tây, Truyền thống (tradition) có nghĩa là "giao", "chuyển giao". Bách khoa thư Pháp định nghĩa "Truyền thống là tất cả những gì người ta biết và thực hành bằng sự chuyển giao từ thế hệ này đến thế hệ khác, thường là truyền miệng, hay bằng sự bảo tồn và noi theo những tập quán, những cách ứng xử, những mẫu hình và tấm gương".
Như vậy, có thể hiểu "truyền thống" như là một hệ thống các tính cách, các thế ứng xử của một cộng đồng, được hình thành trong lịch sử, trong môi trường sinh thái và nhân văn nhất định, trở nên ổn định, trường tồn nhưng không vĩnh cửu, có thể được định chế hóa bằng luật hay bằng lệ (phong tục tập quán) và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có thể gọi là sự di truyền văn hóa bên cạnh sự di truyền sinh vật về thể xác - để đảm bảo tính thống nhất của một cộng đồng trong lịch sử. Mọi sự phát triển đều xuất phát từ truyền thống, con người từ khi sinh ra trong một gia đình, một xã hội đã bị chi phối bởi truyền thống và các hiện tượng văn hóa cũng vậy. Tuy nhiên mọi vấn đề đều có tính hai mặt, truyền thống cũng vậy Truyền thống nào cũng có truyền thống phù hợp và truyền thống không phù hợp. Truyền thống có thể thúc đẩy sự phát triển nhưng mặt khác nó cũng có thể cản trở sự phát triển. Truyền thống mang tính cộng đồng. Truyền
thống được chuyên chở, lưu giữ trong ký ức và từ đó điều khiển hành động của cá nhân. Nhiều khi nó trở thành vô thức, con người cứ hành động theo các quy định. Truyền thống có thể thay đổi, nhưng trong sự ổn định.
- Khái niệm giá trị truyền thống văn hóa
Giá trị truyền thống là sự tuyển chọn những truyền thống tốt đẹp mang ý nghĩa tích cực và tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc. Trong các giá trị truyền thống có cái biến đổi nhanh, có cái bị đứt gẫy, và cũng có cái bền vững trường tồn.
VD: Trong hệ thống giá trị văn hóa Việt Nam, tinh thần yêu nước là một giá trị truyền thống bền vững và trường tồn, tuy nhiên nội dung của nó cũng có quá trình hình thành, phát triển và biến đổi, nâng cao qua các quá trình lịch sử.
Việt Nam là một nước giàu truyền thống văn hóa với 54 tộc người cùng chung sống. Tính đa dạng về văn hóa tộc người thể hiện trên bình diện văn hóa các nhóm ngôn ngữ - tộc người, và văn hóa các nhóm địa phương của mỗi tộc người. Như Việt - Mường, Tày - Thái, Môn - Khơme, Nam Đảo, Mông - Dao, Tạng - Miến, Hoa... Mỗi tộc người lại gồm nhiều nhóm địa phương với sắc thái văn hóa phong phú. Cái sắc thái văn hóa tộc người ấy đan kết, thâm nhập, tiếp biến giữa nhân tố bản địa và ngoại lai, tạo nên bức tranh đa sắc của văn hóa Việt Nam.
Truyền thống văn hóa và nội dung của truyền thống văn hóa rất đa dạng và phong phú. Trong phạm vi nghiên cứu vấn đề đưa giáo dục giá trị văn hóa truyền thống ở tuổi VTN trong nhà trường phổ thông, chỉ tập trung vào những giá trị truyền thống văn hóa tinh thần tiêu biểu, cốt lõi của dân tộc Việt (kinh), phù hợp với lứa tuổi, cấp học của các em, đồng thời nhằm phát huy vai trò của truyền thống đối với xây dựng nhân cách văn hóa vị thành niên trong cuộc sống và yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay.
Trong xã hội hiện thời, khi quan niệm về giá trị truyền thống văn hóa người ta thường dùng cách phân chia văn hóa ra thành văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại. Song, theo chúng tôi nghĩ cách phân địch tách bạch truyền thống - hiện đại chỉ có thể có phần đúng đối với những loại giá trị văn hóa vật chất.
Còn đối với những giá trị văn hóa tinh thần, ví dụ như: tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, uống nước nhớ nguồn... khó có thể phân định tách bạch truyền thống với hiện đại. Không thể có tình yêu nước truyền thống khác biệt với tình yêu nước hiện đại, hay ý thức độc lập tự cường dân tộc truyền thống khác ý thức độc lập tự cường dân tộc thời hiện đại... mà những giá trị truyền thống văn hóa đó vẫn tồn tại được phát huy, phát triển lên một trình độ mới phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển của thời đại. Bởi vì, cái được gọi là hiện đại hiện thời thực chất là những cái giá trị văn hóa cốt lõi được bảo tồn, lưu truyền từ trong truyền thống (quá khứ đã qua) được phát triển nâng lên ngang tầm với trình độ văn hóa thời nay (tạm gọi là hiện đại), trải qua dòng chảy của lịch sử lại được trở thành giá trị văn hóa truyền thống của quá khứ, để cho những thời sau, sau nữa kế tục, phát triển nâng lên, cứ thế... cứ thế mãi...
Từ những lý giải trên, có thể đi đến một quan niệm về giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam trên lĩnh vực văn hóa tinh thần là "biết cách định hướng, lựa chọn, kế thừa, thu nạp và phát triển các giá trị văn hóa, dù nội sinh hay ngoại sinh, của quá khứ hay hiện tại, để làm giàu và phát triển vốn di sản văn hóa tinh thần dân tộc và theo kịp thời đại tiến bộ". Vốn di sản văn hóa ấy là tài sản văn hóa chung thể hiện truyền thống văn hóa Việt Nam, đồng thời thể hiện sức mạnh của bản lĩnh, bản sắc văn hóa Việt Nam trong lịch sử văn hóa dân tộc.
Nhờ có vốn di sản văn hóa dân tộc rất phong phú, đa dạng và đặc sắc mà giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam thật to lớn, bởi nó đã hình thành nên một bảng giá trị tinh thần khả dĩ làm "nền tảng sức mạnh tinh thần" và là động lực cho công cuộc xây dựng phát triển đất nước hiện thời.
Như vậy, truyền thống văn hóa Việt Nam tự tồn với những giá trị bắt nguồn từ tinh thần nhân bản khoan dung Việt Nam, đó là dòng sữa nuôi dưỡng tinh thần Việt Nam, tôi luyện bản lĩnh, xây dựng nhân cách văn hóa con người Việt Nam qua các thế hệ cho tới hôm nay.
niên".
1.1.6. Khái niệm vị thành niên
Trong cuộc đời một con người, có một giai đoạn được gọi là tuổi "Vị thành
Theo từ điển tiếng Việt thì "Vị thành niên là những người chưa đến tuổi trưởng thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình". Trong các văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta (như Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động...) có dùng thuật ngữ "người chưa thành niên" và có quy định cụ thể về độ tuổi và mức độ mà người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Về mặt thuật ngữ, tuy chưa hoàn toàn thống nhất, song có sự thừa nhận chung là: Vị thành niên là một giai đoạn trong quá trình phát triển của con người với đặc điểm lớn nhất là quá trình dạy thì - cơ thể tăng trưởng nhanh chóng để đạt tới sự trưởng thành, tâm lý có sự "bùng nổ sâu sắc. Có thể hiểu đây là giai đoạn "sau trẻ con và trước lớn".
Theo tổ chức y tế thế giới, độ tuổi vị thành niên là từ 10 đến 19 tuổi.
ở Việt Nam, vị thành niên là lứa tuổi từ 11 - 12 tuổi đến 17 - 18 tuổi, chiếm gần 1/4 dân số nước ta (khoảng 22,5%).
Đây là lứa tuổi đang phát triển nhân cách, đặc biệt là quan điểm sống, thế giới quan chưa rõ ràng, sự phát triển về mặt xã hội cũng chưa được xác định. Hầu hết vị thành niên còn phải sống phụ thuộc vào cha mẹ, chưa có vị trí kinh tế độc lập, chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người công dân về mặt pháp luật.
1.2. Nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường
1.2.1. Cơ sở xác định nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa
a) Nội dung cốt lõi của một nền văn hóa, theo đó là một truyền thống văn hóa của một dân tộc, như mọi người đã biết, đó là hệ thống giá trị văn hóa của chính dân tộc đó. Truyền thống văn hóa không phải là bất biến. Nó được hình thành và phát triển trong quá trình vận động, qua nhiều thử thách và tuyển chọn, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Dù xuất phát từ nguồn nội sinh hay nguồn ngoại sinh, dù do tự nguyện hay có thể là do cưỡng bức áp đặt, nhưng tất cả đều trải qua một quá trình thử thách, tuyển chọn, đánh giá tích cực của những con người đương thời, họ muốn chiếm dụng và truyền lưu; để rồi những con người hiện nay coi đấy là những di sản văn hóa của dân tộc mình, tiếp nối tuyển chọn, tôi luyện, chiếm dụng và muốn truyền lưu tới thế hệ kế tiếp. Do vậy, việc giáo dục giá trị
truyền thống cho lứa tuổi vị thành niên là hết sức cần thiết, nhưng không phải giáo dục theo kiểu "về nguồn", trở lại hay "tìm về cội nguồn".
Với các em vị thành niên lứa tuổi đang hình thành và phát triển nhân cách văn hóa, các em chưa phải "can lỗi" đánh mất truyền thống, dẫm đạp truyền thống, vọng ngoại hay bài ngoại văn hóa một cách mù quáng. Nếu có, chẳng qua đó chỉ là do học đòi theo những người lớn không gương mẫu, không hiểu hay không thấm nhuần giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam. Lỗi ở người lớn chúng ta chưa chú trọng giáo dục đến nơi đến chốn những giá trị truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc cho thế hệ trẻ các em. Giải trình như vậy, để có ý nói rằng, mục đích giáo dục giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam cho các em vị thành niên ở nhà trường là rất khác với giáo dục cho người lớn, nhất là những người lớn không đàng hoàng thiếu gương mẫu. Các em không phải là đối tượng phải "giáo dục lại". Cần phải giáo dục mới cho các em thấu hiểu sâu và đúng đắn những mặt tích cực của giá trị truyền thống văn hóa. Cũng phải phân tích cho các em thấy được những mặt hạn chế, không phù hợp điều kiện xã hội mới ở nước ta hiện nay. Đồng thời còn phải giáo dục cho các em cả về phương pháp lựa chọn, định hướng giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam phù hợp, tiếp nối trong điều kiện xã hội nước ta công nghiệp hóa, hiện đại hóa bước vào thế kỷ XXI.
Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho các em không phải nhằm mục đích "sưu tầm đồ cổ", cũng không phải để các em "về nguồn" hay "đi tìm cội nguồn", mà chủ yếu phải là để cho thế hệ tiếp sau người lớn hôm nay tránh khỏi "đứt đoạn truyền thống văn hóa" và cũng tránh khỏi cả việc bảo thủ cố chấp những giá trị văn hóa truyền thống không còn hợp thời. Để cho giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam bị "đứt gánh giữa đường" là có tội lớn với đất nước. Còn việc bảo thủ cố chấp, làm cản trở bước phát triển của truyền thống văn hóa tốt đẹp, cũng là có tội với đất nước. Do vậy, ở đây phương pháp định hướng - giá trị cho các em là vô cùng quan trọng.
b) Những giá trị truyền thống đang hiện diện trong cuộc sống hôm nay thông qua nhiều hệ thống di sản văn hóa dân tộc: hệ thống các tác phẩm văn học, nghệ thuật, lịch sử, khoa học xã hội, nhân văn,...; hệ thống các nhân cách văn hóa lớn; hệ thống các khuôn mẫu văn hóa đậm thuần phong mĩ tục dân tộc; hệ thống những di tích lịch sử - văn
hóa; hệ thống những di sản văn hóa dân gian; v.v... Đây là những đối tượng sử dụng tốt nhất trong việc giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho mọi người nói chung và cho lứa tuổi vị thành niên ở học đường nói riêng. Mỗi loại di sản có những tính năng, tác dụng riêng, cần nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra những biện pháp sử dụng phù hợp và hữu hiệu với từng đối tượng giáo dục.
Hệ thống tác phẩm văn hóa rất phong phú, đa dạng. Nó có khả năng cung cấp tri thức và tác động cảm xúc tích cực về giá trị truyền thống văn hóa bằng con đường học, đọc, nghe, xem, chơi. Các tác phẩm văn hóa đã có sự lựa chọn, định hướng giá trị đạt trình độ cao, có tầm khái quát và tầm chuẩn mực cao. Nó là một loại đối tượng sử dụng giáo dục tối ưu cho mọi đối tượng công chúng đủ điều kiện thực hiện việc học, đọc, nghe, xem, chơi với nó.
Hệ thống những di tích lịch sử - văn hóa cũng rất nhiều, có ở khắp mọi nơi trên đất nước ta. Nó có khả năng giáo dục tri thức và cảm xúc tích cực về truyền thống văn hóa dân tộc bằng con đường gián tiếp (qua nghe đài, nghe kể, xem sách, báo, tranh ảnh), nhưng mạnh nhất, tối ưu là bằng con đường tham quan khảo sát trực tiếp. Tầm tuyển lựa, định hướng giá trị cũng như tầm khái quát, tầm chuẩn mực giá trị của những di tích lịch sử - văn hóa cũng đã đạt đến trình độ cao trong lịch sử đương thời. Nó là một đối tượng sử dụng giáo dục tối ưu cho mọi đối tượng công chúng nào có đủ điều kiện thực hiện việc tham quan khảo sát trực tiếp với các bảo tàng trong nhà, bảo tàng ngoài trời, các di tích lịch sử - văn hóa, nhà truyền thống, nhà lưu niệm...
Cũng là những di sản văn hóa vô cùng quý giá của dân tộc, các nhân cách văn hóa lớn ở nước ta, kể cả ở thời quá khứ và những nhân chứng lịch sử thời đại Hồ Chí Minh, là một kho tàng quý báu những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Những nhân cách văn hóa lớn chính là nơi đã có tầm tuyển lựa, khái quát, chuẩn mực và định hướng giá trị rất cao, cả cho hiện nay và lâu dài mai sau. Đây cũng là một đối tượng sử dụng tốt cho những đối tượng giáo dục nào có điều kiện thực hiện bằng con đường gián tiếp (đọc tiểu sử, lịch sử, hồi ký, nghe kể chuyện, xem phim tài liệu Việt Nam - đất nước - con người, v.v...) và con đường trực tiếp gặp gỡ danh nhân.
Hệ thống những di sản văn hóa dân gian và những khuôn mẫu văn hóa lại còn phong phú, đa dạng hơn nữa. Nó đang hiện diện, hiện hành trong thực tế cuộc sống, trực tiếp ngay trên từng cộng đồng dân cư. Tầm chuẩn mực, khái quát và định hướng - giá trị của những loại di sản văn hóa này có thể chưa đạt tới trình độ cao như những loại di sản kể trên, nhưng nó lại rất đậm tính nhân văn, dân tộc, đại chúng. Đây là những đối tượng sử dụng rất đáng được quan tâm khai thác để giáo dục phổ cập truyền thống văn hóa cho mọi tầng lớp nhân dân quần chúng.
Hai loại - Di sản văn hóa dân gian và khuôn mẫu văn hóa - có những đặc trưng riêng khác nhau về tính năng, tác dụng giáo dục giá trị truyền thống văn hóa. Văn hóa, nghệ thuật dân gian có khả năng giáo dục truyền thống văn hóa qua con đường nghe, xem, chơi và bằng những biện pháp giáo dục thẩm mĩ. Còn những khuôn mẫu văn hóa thì có khả năng giáo dục truyền thống văn hóa qua con đường thực thao hành vi ứng xử và bằng những biện pháp xây dựng thành nếp sống văn hóa.
c) Để giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lớp người vị thành niên ở học đường, cụ thể là những học sinh trường phổ thông cấp II, cấp III của nước ta, chúng ta có thể khai thác sử dụng tất cả các loại di sản văn hóa kể trên. Tuy nhiên, phải tùy theo đặc điểm của lứa tuổi và điều kiện học tập ở trường, tùy đặc điểm từng trường của từng địa phương lứa tuổi học sinh này ở nước ta hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu sử dụng những biện pháp giáo dục giá trị truyền thống văn hóa dân tộc cho các em thế nào cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực.
Thực tình ai cũng vậy, lĩnh vực nào cũng quan trọng. Ngoại trừ những môn khoa học cơ bản đương nhiên phải học, như Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Ngôn ngữ, Tâm lý, Ngoại ngữ, Chính trị, v.v... thì các lĩnh vực khác về văn hóa, xã hội, nghệ thuật, thể thao, pháp luật, v.v... ai cũng muốn lĩnh vực của mình được xây dựng thành một môn học chính khóa đàng hoàng gồm hàng chục bài với hàng chục tiết học, có cả chính khóa và phụ khóa, có cả lý thuyết và thực hành, bài tập, để rèn luyện giáo dục cho các em thấm nhuần sâu sắc vững vàng trước khi vào đời. Bởi các em đang tuổi cần được giáo dục toàn diện để hình thành nhân cách phát triển toàn diện, đủ tất cả các tố chất Đức, Trí, Thể, Mỹ, Năng lực, Kỹ năng sống v.v...
Lĩnh vực văn hóa càng quan trọng không kém, nhất lại phải nhấn mạnh vào truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Bởi, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của phát triển xã hội; chúng ta chiến thắng bao kẻ thù mạnh gấp bội là nhờ có truyền thống văn hóa Việt Nam; chúng ta cũng cần phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, v.v... Theo đó, lĩnh vực văn hóa rất đáng mong muốn được xây dựng thành một môn học "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam", đồng hành với các môn "Giáo dục công dân", "Giáo dục đạo đức", "Giáo dục pháp luật", "Giáo dục thể chất", v.v... để dạy cho các em học sinh cấp II, cấp III. Nước ta có đủ khả năng để xây dựng một môn học đặc trưng "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" chính khóa, đàng hoàng, không kém gì các môn học về văn học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, v.v... Nước ta trong lúc đang bước vào thời kỳ CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, v.v..., do vậy, cũng đang rất cần "giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" cho các em vị thành niên, những người làm chủ tương lai ở thế kỷ XXI, đủ sức mạnh chống tình trạng "đứt đoạn truyền thống văn hóa Việt Nam" nếu xảy ra.
Thực lòng mong muốn và thực tế cần thiết đáng là như vậy. Song, trong phạm vi của đề tài này, hơn nữa trong thực tế hoàn cảnh học tập của các em học sinh hiện nay, chưa cho phép đặt ra thêm một môn học chính khóa về "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" với đầy đủ nội dung toàn diện đích thực của nó, để giảng dạy và để học tập cho các em học sinh cấp II, III. Chỉ hy vọng rằng, ước mơ xây dựng môn học "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" sẽ được hiện thực hóa để giảng dạy và học tập, cả cho học sinh phổ thông và sinh viên đại học, trong những năm tương lai gần đây nhất. (Nếu được bàn luận thêm ngoài lề, xa hơn chút nữa, chúng tôi có cảm nhận là nên sắp xếp lại cho hợp lý, thiết thực, các môn học có nội dung về "văn hóa" hiện đang được giảng dạy và học tập ở một số trường đại học xã hội - nhân văn - văn hóa - nghệ thuật. Chúng ta đang có nhiều phần trùng lặp nhau, nội dung bàng bạc. Chúng ta đã có khá nhiều môn về văn hóa học, lý luận văn hóa, văn hóa phương Đông, cơ sở văn hóa Việt Nam, đường lối văn hóa, xã hội học - văn hóa, v.v... chiếm thời lượng dạy và học hơn hai trăm giờ, chưa kể giờ viết tiểu luận, trong lúc đó chưa có một giờ nào cho một môn nào về "Giáo dục
truyền thống văn hóa Việt Nam" đích thực, để góp phần vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam).
Trở lại với thực tại giáo dục cho các em học sinh cấp II, III. Hiện nay các em đang bị quá tải, học quá nhiều môn. Trên vai các em đang mang quá nhiều sách và vở đủ cho rất nhiều môn phải học. Về nhà, các em học "hết nổi", có nhiều môn phải chịu học qua loa, nhất là những môn được các em xếp vào hàng "không quan trọng", "không phải môn chính". Những môn nào nặng về "lý luận quá", trừu tượng quá, các em càng ít muốn học. ở trường, vì mới bổ sung thêm quá nhiều môn, nên thời khóa biểu hay bị kẹt, có lúc phải tăng giờ học, hoặc có môn bị xếp giờ xếp lịch ép, có nhiều môn mới quá chưa có hoặc chưa đủ thầy dạy, v.v... Trong hoàn cảnh như vậy, nếu bây giờ phải xếp thêm vào một môn lý luận "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" nữa, sợ e không thể thực hiện nổi. Nó sẽ làm tăng thêm sức ép, chồng thêm lên mức quá tải cả cho các em và cả cho nhà trường. Muốn cố chen vào kỳ được cũng không còn chỗ để chen. Muốn đẩy môn khác ra để đưa môn này vào lại càng vô lý. Chi bằng hợp tình hợp lý nhất lúc này, nên đưa môn "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" xếp vào Chương trình môn giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Cũng còn những lý do khác nữa, khái niệm "Văn hóa" cũng như "truyền thống văn hóa" đang là một khái niệm rất co giãn. Nó có thể được khái quát hóa lên ở tầm độ rất cao, với mức lý luận trừu tượng rất lớn, và cũng có thể được chi tiết hóa ở/vào những hiện tượng, hành vi rất nhỏ. Trong thực tế ngôn ngữ thông dụng ở nước ta hiện nay, khái niệm văn hóa có thể được xếp vào nhiều hạng sử dụng. Văn hóa được coi như một nền văn hóa - (Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc...). Văn hóa cũng được gom lại thành một Ngành văn hóa - (khác với các ngành khác như Thông tin, Giáo dục, Khoa học, Thể thao, v.v...). Văn hóa lại còn được coi như một tính từ, làm định ngữ - (con người có văn hóa, nhân cách văn hóa, nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng, ấp, xóm văn hóa, khu phố văn hóa, chợ văn hóa, thuyền văn hóa, v.v... và v.v...). Văn hóa cũng hay được dùng để nói lên trình độ giỏi, điêu luyện, đặc sắc của một lĩnh vực nào đó - (văn hóa ẩm thực, văn hóa chơi, văn hóa rượu, văn hóa quản lý, văn hóa kinh doanh, v.v...). Giữa "văn hóa truyền thống" và "truyền thống văn hóa" cũng hay được hiểu rất co giãn, nội dung khái niệm còn nhiều điều nhập nhùng, bàng bạc, khó xử. Các cụm từ khác về văn
hóa, như "Văn hóa thể thao", "Thể thao văn hóa"; "Văn hóa gia đình", "Gia đình văn hóa"; Văn hóa làng", "Làng văn hóa"; v.v... và v.v... cũng có tình trạng như vậy. Do đó, nếu chưa giải mã rành mạch được các khái niệm văn hóa này, thật khó lòng đưa vào cho các em học về văn hóa, về truyền thống văn hóa hay văn hóa truyền thống,... có thể làm cho các em thêm rối rắm, khó tiếp nhận đầy đủ, chính xác.
Nhưng qua những điều giãi bày ở trên, cũng cho thấy một số điều thú vị, khả dĩ giúp xác định cụ thể nội dung giáo dục truyền thống văn hóa cho các em học sinh. Khi nói đến văn hóa hay truyền thống văn hóa, nên giải thích chia ra thành hai bình diện: Văn hóa ở bình diện lý thuyết và văn hóa ở bình diện thực hành. Cũng như lĩnh vực "đạo đức"
- có đạo đức học ở bình diện lý thuyết và có hành vi đạo đức ở bình diện thực hành. Đối với lĩnh vực "Pháp luật" cũng vậy - có pháp luật học ở bình diện lý thuyết, và có văn bản pháp luật, hành vi pháp luật,... ở bình diện thực hành, v.v...
Trở lại với văn hóa là truyền thống văn hóa. ở bình diện lý thuyết văn hóa học, có biết bao nhiêu nguyên lý, lý luận, định nghĩa, phương pháp luận tiếp cận với văn hóa và truyền thống văn hóa. ở bình diện này, lý luận đã nhiều, còn nhiều và vẫn còn nhiều điều tranh cãi. Còn ở bình diện thực hành, văn hóa và truyền thống văn hóa đang hiện diện ra trong xã hội với biết bao nhiêu hình thức, mô hình trong thực hành nghề văn hóa và hành vi văn hóa của một truyền thống văn hóa Việt Nam. Nó đang diễn ra có cả cái đúng và cái sai, có cả cái hay và cái dở, cái hợp thời và cái không hợp thời. Dĩ nhiên, ở đây, giữa bình diện lý thuyết và bình diện thực hành có sự tương liên, tương tác, chi phối lẫn nhau để cùng nhau phát triển. Lý luận là chất xám để cây đời phát triển và ngược lại, cây đời phát triển xanh tươi để cho chất xám gia tăng và hoàn chỉnh.
Bình diện lý thuyết và bình diện thực hành tuy là xen cài nhau, nhưng vẫn cho thấy rõ diện mạo riêng của chúng. ở bình diện lý thuyết, người ta "nhìn thấy" văn hóa, truyền thống văn hóa như một "cấu trúc có bề sâu", là "cái còn đọng lại..." - (một diện mạo vô hình). Còn ở bình diện thực hành, người ta nhìn thấy thật diện mạo của văn hóa, truyền thống văn hóa là một hệ thống (hữu hình) những sản phẩm văn hóa, hoạt động văn hóa, khuôn mẫu văn hóa ứng xử, v.v... đang diễn ra trên bề mặt xã hội ấy. Diện mạo hữu hình của văn hóa đang diễn ra trên bề mặt ấy lại được hệ thống các quy tắc văn hóa (vô