Giai đoạn 2: Kết thúc giai đoạn 1, đánh giá, rút kinh nghiệm và chuyển sang áp dụng phương thức giám trên cơ sở rủi ro, hướng tới 3 trụ cột chính đó là chỉ số an toàn tài chính, quản trị doanh nghiệp, minh bạch thông tin.
3.2.1.4. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá doanh nghiệp
Từ kết quả giám sát, cơ quan giám sát cần phải có biện pháp xử lý kịp thời đối với từng DNBH tùy thuộc vào kết quả giám sát. Do đó cần có bộ tiêu chí đánh giá DNBH dựa trên đánh giá về các hạng mục rủi ro, đánh giá về biện pháp ngăn ngừa rủi ro của doanh nghiệp cũng như các tiêu chí bổ trợ như vốn, khả năng thanh toán, doanh thu để đưa ra mức độ xếp hạng với từng DNBH.
Trong thời gian qua Việt Nam chưa có bộ tiêu chí đánh giá DNBH. Việc xử lý thường căn cứ vào từng vi phạm riêng lẻ, chưa xem xét trong một tổng thể các vấn đề ảnh hưởng tới tình hình của DNBH. Nhưng cũng nhận thấy rằng, việc đánh giá riêng lẻ từng tiêu chí cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ví dụ một DNBH có thể có biên khả năng thanh toán không nằm trong ngưỡng báo động, tính trên mức phí bảo hiểm giữ lại. Nhưng bản thân DNBH đó lại tái một phần lớn số phí thu được ra nước ngoài cho một doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm không đủ tiêu chuẩn. Khi rủi ro xảy ra, doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm không đủ khả năng thanh toán, do đó trách nhiệm đối với bên mua bảo hiểm thì DNBH gốc phải thanh toán hết, nhưng nếu phải thanh toán cả phần tái bảo hiểm thì rất có thể DNBH cũng mất khả năng thanh toán. Do vậy nếu chỉ đánh giá riêng phần khả năng thanh toán thì chưa hẳn đã chính xác với DNBH mà phải có đánh giá tổng thể. Bộ tiêu chí đánh giá nên đề cập đến các chỉ tiêu về hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu về tính thanh khoản, chỉ tiêu về vốn quĩ, chỉ tiêu lợi nhuận.
Trong bất kỳ phương thức giám sát nào thì cũng cần chỉ ra vị trí của DNBH hay mức độ rủi ro thuần đối với từng DNBH. Vị trí của từng DNBH là kết quả của quá trình giám sát. Luận án đề xuất xây dựng tiêu chí đánh giá DNBH phi nhân thọ như sau:
- Trước hết phải xây dựng được trọng số tính toán cho các DNBH: Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới tình hình tài chính DNBH, yếu tố nào là tác động nhiều, đưa ra trọng số cho yếu tố đó;
- Các DNBH tính toán và báo cáo Bộ Tài chính kết quả tính toán;
- Bộ Tài chính căn cứ báo cáo của các DNBH và kết hợp kết quả giám sát của cơ quan giám sát để tiến hành xếp loại DNBH.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Chung Về Hoạt Động Giám Sát Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Việt Nam
- Định Hướng Giám Sát Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Việt Nam
- Định Hướng Giám Sát Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Việt Nam Trong Thời Gian Tới
- Hoàn Thiện Và Nâng Cao Hiệu Quả Họat Động Của Cơ Quan Giám Sát
- Hoàn Thiện Quy Trình Trong Hoạt Động Giám Sát
- Tăng Cường Giám Sát Hoạt Động Của Doanh Nghiệp Môi Giới Bảo Hiểm
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
Xây dựng 5 loại xếp hạng và các giải pháp thực hiện đối với từng loại như sau:
Loại 1: là các doanh nghiệp có kết quả hoạt động tốt, các chỉ tiêu cảnh báo sớm đều nằm trong biên độ cho phép. Đối với các DNBH, chi nhánh nước ngoài xếp loại 1, thực hiện:
+ Tiếp tục củng cố và duy trì hoạt động kinh doanh; nghiên cứu mở rộng nghiệp vụ kinh doanh, mở thêm chi nhánh căn cứ vào các nguyên tắc hiệu quả và cạnh tranh lành mạnh;
+ Tiếp tục tăng cường việc sử dụng hệ thống công nghệ thông tin trong triển khai hoạt động kinh doanh và quản trị, điều hành; tăng cường chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng;
+ Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ.
Loại 2: là các doanh nghiệp có các chỉ tiêu cảnh báo sớm đều nằm trong biên độ cho phép nhưng kết quả hoạt động chưa tốt, các chỉ tiêu ngăn ngừa rủi ro chỉ ở mức trung bình. Đối với các DNBH, chi nhánh nước ngoài xếp loại 2, thực hiện:
+ Xây dựng và thực hiện phương án kinh doanh tập trung vào các phân khúc thị trường có thế mạnh;
+ Tinh giản bộ máy hoạt động, cắt giảm chi phí khai thác và quản lý;
+ Xử lý, thu hồi các khoản nợ phải thu khó đòi;
+ Tăng vốn; cơ cấu lại danh mục đầu tư theo hướng hạn chế đầu tư vào các tài sản rủi ro, xây dựng và thực hiện phương án tái bảo hiểm hiệu quả.
Loại 3: là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không có lãi, có nguy cơ mất khả năng thanh toán mà không có các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Đối với các DNBH, chi nhánh nước ngoài xếp loại 3, thực hiện:
+ Thu hẹp các nghiệp vụ kinh doanh và đóng cửa các chi nhánh hoạt động không có lãi; hạn chế mở rộng hoạt động kinh doanh;
+ Chuyển giao một hoặc một số nghiệp vụ bảo hiểm;
+ Không thực hiện chia lãi cho cổ đông (thành viên) góp vốn.
+ Đối với DNBH có nguy cơ mất khả năng thanh toán thực hiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 19 Nghị định số 46/2007/NĐ-CP, chi nhánh nước ngoài có nguy cơ mất khả năng thanh toán thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 19 Nghị định số 123/2011/NĐ-CP.
Loại 4: là các chỉ tiêu cảnh báo sớm nằm ngoài mức cho phép, không có biện pháp ngăn ngừa rủi ro. Đối với các DNBH, chi nhánh nước ngoài xếp loại 4, thực hiện:
+ Chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, sáp nhập, mua lại bởi một tổ chức khác;
+ Đối với DNBH, chi nhánh nước ngoài có nguy cơ mất khả năng thanh toán, sau khi thực hiện các biện pháp vẫn không khôi phục được khả năng thanh toán, sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt. Bộ Tài chính quyết định thành lập Ban Kiểm soát khả năng thanh toán để áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán theo quy định tại Điều 80 Luật Kinh doanh bảo hiểm.
Loại 5: sau khi đã áp dụng các biện pháp mà vẫn không khôi phục được khả năng thanh toán, DNBH thực hiện các thủ tục phá sản, chi nhánh nước ngoài thực hiện các thủ tục giải thể, đóng cửa theo quy định của pháp luật.
Với cách đánh giá xếp loại DNBH giúp cho cán bộ giám sát có cách đánh giá và xử lý đồng nhất trong toàn thị trường.
Bộ tiêu chí đánh giá DNBH có thể xây dựng và áp dụng ngay từ năm 2015, khi chuyển đổi được hoàn toàn sang phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro sẽ xây dựng lại bộ tiêu chí này cho phù hợp với cách tính của phương thức giám sát mới.
3.2.1.5. Chuyển từ mô hình vốn tối thiểu sang mô hình vốn dựa trên cơ sở rủi ro (RBC)
Để thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro thì ngoài việc qui định về vốn tối thiểu cần tính vốn trên cơ sở rủi ro. Nếu chỉ qui định về vốn tối thiểu, cơ quan giám sát sẽ đưa ra mức vốn cần có cho các DNBH kinh doanh nhiều nghiệp vụ nhất. Một thực tế là sẽ có DNBH không dùng hết số vốn đó, nếu DNBH đó chỉ kinh doanh các nghiệp vụ cơ bản (ví dụ như xe cơ giới), mức độ tổn thất không quá lớn, số lượng tham gia rủi ro nhiều. Các DNBH này chỉ có thể sử dụng vốn vào việc đầu tư. Với thị trường Việt Nam hiện nay, các DNBH chủ yếu đầu tư dưới hình thức tiền gửi. Việc qui định mức vốn trên cơ sở rủi ro sẽ giúp cho DNBH sử dụng nguồn vốn hiệu quả.
Việt Nam đang tính vốn theo mô hình vốn tối thiểu có tính tới mức vốn dựa trên cơ sở rủi ro bằng việc qui định việc mở thêm một chi nhánh thì số vốn phải tăng lên 20 tỷ đồng. Tuy nhiên các qui định này cũng mang tính ước lệ chứ chưa có căn cứ rõ ràng để tính nhu cầu về vốn khi DNBH triển khai loại hình nghiệp vụ mới. Quy định hiện nay của Việt Nam mới chỉ tập trung vào rủi ro đối với hoạt động bảo hiểm, trong khi đó rủi ro trong các hoạt động khác như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thảm họa
thiên nhiên… chưa được chú trọng đến. Khuyến nghị đối với các cơ quan giám sát thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay nên đưa ra lộ trình cụ thể để chuyển đổi sang giám sát vốn dựa trên cơ sở rủi ro (RBC).
Việc qui định mức vốn trên cơ sở rủi ro phù hợp với nghiệp vụ kinh doanh của từng DNBH; đảm bảo an toàn tài chính cho các DNBH. Để thực hiện được, cần phân loại các loại rủi ro, xác định các nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro về vốn. Xây dựng các hạng mục đánh giá rủi ro mà cơ quan giám sát sẽ giám sát và mức độ đánh giá của từng hạng mục rủi ro. Hiện nay các nước xây dựng khoản từ 4 - 8 hạng mục. Trên cơ sở điều kiện thông tin có được từ các DNBH Việt Nam luận án đề xuất lựa chọn 6 hạng mục rủi ro, đó là: rủi ro bảo hiểm, rủi ro kinh doanh, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro đầu tư, rủi ro tuân thủ. Nhưng để tính vốn trên cơ sở rủi ro chỉ dựa vào 4 rủi ro sau là những rủi ro có nguy cơ phát sinh cao như:
(1) Rủi ro bảo hiểm (Gồm rủi ro về giá bảo hiểm và rủi ro quĩ dự phòng)
Rủi ro về giá bảo hiểm: Mức độ rủi ro này của các DNBH phi nhân thọ ở Việt Nam là rất cao vì tình trạng sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh như: hạ phí, giảm mức khấu trừ, mở rộng phạm vi bảo hiểm; quy trình, phương pháp xét nhận bảo hiểm không chuyên nghiệp; năng lực đội ngũ chuyên viên xét nhận bảo hiểm hạn chế; thụ động trong tái bảo hiểm,...
Rủi ro dự phòng bảo hiểm: Rủi ro này phát sinh từ các hạn chế nội tại của các doanh nghiệp - năng lực đội ngũ chuyên viên tính toán, hệ thống công nghệ thông tin,... thậm chí tư duy kinh doanh trong quản lý DNBH và khiếm khuyết của các quy định quản lý liên quan. Các DNBH thường lựa chọn phương pháp trích lập đơn giản, trích lập không đầy đủ đối với dự phòng bồi thường. Chính điều này đã làm cho việc trích lập dự phòng nghiệp vụ giữa các DNBH còn tuỳ tiện, theo ý muốn của doanh nghiệp và chưa thống nhất. Việc trích lập dự phòng không đầy đủ cũng là một rủi ro lớn đối với DNBH.
(2) Rủi ro kinh doanh (rủi ro về quản trị doanh nghiệp): xuất phát từ hạn chế về năng lực quản lý, các hệ thống và quy trình và hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ chưa đầy đủ, đồng bộ nên rủi ro này đối với các DNBH phi nhân thọ Việt Nam có nguy cơ cao.
(3) Rủi ro đầu tư (gồm rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng): thị trường tài chính Việt Nam còn non trẻ nên rủi ro phát sinh liên quan đến sự phát triển chưa ổn định của
các yếu tố thị trường, môi trường đầu tư, môi trường pháp lý. Bên cạnh đó là hạn chế trong năng lực, kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư của bản thân một số doanh nghiệp nên khả năng rủi ro đối với nhiều doanh nghiệp là khá lớn.
Hiện nay các tổ chức tín dụng của Việt Nam có mức độ xếp hạng tín nhiệm chưa cao, theo banker thuộc The Financial Times vừa công bố, Việt Nam có 43 ngân hàng được khảo sát nhưng chỉ có 11 ngân hàng được lọt vào danh sách 1000. Trong đó Vietinbank được xếp thứ hạng 362, Vietcombank xếp hạng 467, BIDV xếp hạng 522, Sài gòn Thương tín xếp thứ 777, Eximbank xếp thứ 802. Nhiều ngân hàng có mức nợ xấu cao. Do đó, rủi ro tín dụng cũng là một nguy cơ rủi ro đối với các DNBH vì cơ cấu đầu tư của các DNBH tập trung chủ yếu vào mục tiền gửi tại các tổ chức tín dụng.
(4) Rủi ro thanh khoản: rủi ro thanh khoản bị chi phối bởi rủi ro đầu tư nói trên và sự phát triển chưa ổn định của các yếu tố thị trường liên quan nên vẫn là mối nguy hiểm lớn đối với nhiều DNBH Việt nam cho dù khoản mục tiền gửi ngân hàng đang chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu tài sản của các doanh nghiệp.
Trên thực tế, tùy thuộc vào trình độ phát triển của thị trường mà từng khối như EU, Bắc Âu, Mỹ,.. có các công thức tính khác nhau phụ thuộc vào các rủi ro được coi là rủi ro chính của thị trường đó. Theo công thức chung thì mức độ rủi ro được tính dựa trên mức độ đồng biến của bình phương các loại rủi ro.
Đề xuất công thức tính:
RBC = √(R12 +R22 + R32 + R42)
RBC đề cập đến 4 dạng chính của rủi ro, Trong đó:
+ R1: Rủi ro bảo hiểm
+ R2: Rủi ro kinh doanh
+ R3: Rủi ro đầu tư
+ R4: Rủi ro thanh khoản
Mức độ can thiệp phụ thuộc vào tỷ lệ vốn RBC (Vốn hiện có/ RBC) như sau:
- Nếu trên 150%: Không cần can thiệp;
- Từ 120 - 150%: DNBH phải gửi báo cáo cho cơ quan giám sát;
- Từ 110 - 120%: DNBH phải gửi kế hoạch hành động bổ sung vốn cho cơ quan giám sát;
- Từ 90 - 110%: Cơ quan giám sát có quyền điều hành doanh nghiệp;
- Dưới 90%: Cơ quan giám sát có nghĩa vụ tiếp nhận quản lý doanh nghiệp (cấp
độ cưỡng chế).
Trong giai đoạn đầu, Việt Nam nên áp dụng cả vốn tối thiểu và vốn trên cơ sở rủi ro vì mức độ tính toán vốn trên cơ sở rủi ro trong giai đoạn đầu có thể chưa thật sát với mức độ rủi ro, do chưa có hệ thống dữ liệu của các DNBH trong quá khứ cũng như hệ thống thông tin để phân tích mức độ rủi ro, các yếu tố của thị trường, môi trường pháp lý còn đang chưa ổn định. Để đảm bảo an toàn, nên áp dụng cả hai loại vốn khi thi trường phát triển sang giai đoạn ổn định hơn thì có thể chỉ cần áp dụng theo mức vốn trên cơ sở rủi ro.
3.2.1.6. Tính toán Biên khả năng thanh toán
Biên khả năng thanh toán là chỉ tiêu quan trọng đối với mỗi DNBH khi xác định tính lành mạnh về tài chính. Theo thông lệ quốc tế hiện nay có 3 cách tính biên khả năng thanh toán như đã trình bày tại chương 1. Việt Nam hiện nay đang thực hiện theo cách tính riêng. Quy định hiện tại ở Việt Nam cho phép hệ số rủi ro ròng không được vượt quá 4: 1 và hệ số rủi ro gộp không được vượt quá 8: 1. Nói cách khác quy định hiện tại của Việt Nam quy định về tỷ lệ đòn bẩy tối đa hơn là quy định về khả năng thanh toán theo 3 cách tiếp cận của quốc tế. Vì vậy đề xuất sửa đổi vì các lý do sau:
Quy định tỷ lệ đòn bẩy tối đa không phải là quy định về khả năng thanh toán. Đòn bẩy tối đa hạn chế rủi ro tiềm tàng nhưng không tập trung đến yếu tố trọng yếu đó là cấp độ mà tài sản phải lớn hơn công nợ và phần lớn hơn đó liên quan đến tổng thể rủi ro như thế nào. Quan hệ giữa tài sản và công nợ cần trực tiếp thể hiện khả năng thanh toán chứ không phải là chỉ số giữa phí bảo hiểm với vốn chủ sở hữu.
Mức độ hệ số rủi ro ròng và hệ số rủi ro gộp quy định tại Nghị định 46/2007/NĐ- CP là cao so với chuẩn quốc tế (2,5: 1). Do đó, Việt Nam cho phép các DNBH được chấp nhận rủi ro cao hơn so với mức trung bình của các nước khác. Điều đó sẽ làm cho bên mua bảo hiểm phải chịu mức độ rủi ro cao hơn.
Thay vì tính các hệ số gia quyền cho rủi ro theo các hạng mục tài sản và công nợ để tính tổng mức vốn tối thiểu, Việt Nam đang xác định biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp trên cơ sở giảm giá trị thừa nhận của tài sản khi tính biên khả năng thanh toán theo các hệ số được xác định trước. Việc chiết khấu giá trị tài sản chưa tính đến rủi ro về phía công nợ.
Yêu cầu về khả năng thanh toán có bản chất là việc quy định tài sản vượt công nợ ở một mức độ nhất định và sẽ có quy mô càng lớn khi mức công nợ của doanh nghiệp tăng theo quy mô kinh doanh. Mức tối thiểu mà tài sản vượt công nợ được gọi là biên
khả năng thanh toán. Khái niệm này phản ánh rằng nếu công nợ càng lớn thì cần phải có quy mô vốn chủ sở hữu càng cao để bù đắp cho các biến động bất thường không lường trước được. Bản chất của sản phẩm bảo hiểm là sự bảo đảm, quy mô vốn chủ sở hữu tương ứng với quy mô công nợ chính là việc đảm bảo cho sự bảo đảm đó. Đề xuất, với điều kiện Việt Nam hiện nay, tiến tới áp dụng biên khả năng thanh toán 1, tuy nhiên có điều chỉnh các hệ số cho phù hợp với Việt Nam. Khi tính biên khả năng thanh toán ngoài yếu tố về mức phí bảo hiểm giữ lại cần tính tới yếu tố dự phòng bồi thường tổn thất.
3.2.1.7. Xây dựng các chỉ tiêu giám sát và các chỉ tiêu cảnh báo sớm
DNBH cũng giống như các doanh nghiệp khác phải hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Một trong các mục tiêu giám sát thị trường của cơ quan giám sát đối với bất kỳ doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nào cũng đều tập trung vào năng lực tài chính của doanh nghiệp có đủ mạnh để chống đỡ với các cú sốc của thị trường. Do vậy, cơ quan giám sát cần có bộ tiêu chí giám sát trong đó có các chỉ tiêu đánh giá chung mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải có và các tiêu chí mang tính đặc thù riêng của từng hoạt động kinh doanh, ở đây là hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Hiệu quả giám sát phụ thuộc vào tính hợp lý của các chỉ tiêu sử dụng, tiêu chuẩn so sánh, đối chiếu và chất lượng thông tin. Hiện nay Việt Nam đang áp dụng hệ thống chỉ tiêu cảnh báo sớm theo Quyết định 153/2003/QĐ-BTC, tuy nhiên hệ thống này đang có những bất cập như đã phân tích ở chương 2.
Cách tính các chỉ tiêu khác hiện nay đã thay đổi do chế độ kế toán thay đổi. Ví dụ việc lập dự phòng theo chế độ kế toán không chỉ tính trên phí bảo hiểm giữ lại mà phải lập dự phòng cho cả khoản phí tái bảo hiểm trong khi cơ chế tài chính chỉ yêu cầu lập dự phòng trên phí bảo hiểm giữ lại. Biên độ đối với từng chỉ tiêu đang áp dụng theo biên độ chung của Mỹ là không phù hợp với Việt Nam.
Luận án đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống chỉ tiêu giám sát và cảnh báo sớm đối với DNBH phi nhân thọ:
(1) Bổ sung các chỉ tiêu đánh giá
+ ROA = Lợi nhuận sau thuế /tổng tài sản
Chỉ số này đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của DNBH. Tài sản của DNBH được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu, cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của DNBH. Hiệu quả của việc chuyển vốn đầu tư
thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA, ROA càng cao thì càng tốt vì DNBH đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn.
+ ROE = Lợi nhuận thuần / vốn chủ sở hữu
Tỷ suất thu hồi vốn là một thước đo tổng thể quan trọng trong hoạt động tài chính đối với bất kỳ tổ chức nào. Tỷ suất thu hồi thấp hoặc âm trong một khoảng thời gian chắc chắn sẽ làm tổn hại đến khả năng tài chính của DNBH.
Đồng thời, sự sống còn của ngành bảo hiểm phụ thuộc vào việc các cổ đông đồng ý đầu tư vốn vào các DNBH. Nếu họ không nhận được lợi nhuận hợp lý, đặc biệt là xem xét đến tính bất định của các DNBH phi nhân thọ, thì theo thời gian họ sẽ rút vốn đầu tư của họ và ngành bảo hiểm sẽ dần biến mất vì có sự so sánh giữa lĩnh vực bảo hiểm hay lĩnh vực khác để lựa chọn đầu tư.
+ Hệ số đòn bẩy = Tổng tài sản/ Vốn chủ sở hữu
+ Hệ số thanh toán tức thời = Tiền và tương đương tiền/tổng nợ ngắn hạn
Tỉ lệ này có thể được mô tả như là một chỉ số kiểm tra hữu hiệu về khả năng DNBH có thể đáp ứng các nhu cầu tài chính đặt ra mà không cần đáo hạn trước các khoản đầu tư dài hạn hoặc vay mượn tiền.
(2) Xác định biên độ tham chiếu cho phù hợp
Các chỉ tiêu cảnh báo sớm đã cung cấp một cách nhìn hữu ích để giải quyết những khó khăn nổi lên trên thị trường tài chính. Tuy nhiên, các biên độ tham chiếu chưa thật phù hợp với Việt Nam trong thời gian vừa qua. Ví dụ: Các chỉ tiêu tổng doanh thu phí bảo hiểm trên nguồn vốn quỹ có biên độ tham chiếu <900%, chỉ tiêu doanh thu phí bảo hiểm thuần trên nguồn vốn quỹ có biên độ tham chiếu <300%. Thực tiễn, các DNBH Việt Nam không vượt quá giới hạn tham chiếu này bởi vì Mỹ áp dụng mô hình vốn dựa trên cơ sở rủi ro, trong khi Việt Nam áp dụng mô hình vốn tối thiểu. Theo đánh giá của Phòng quản lý, giám sát phi nhân thọ, chỉ tiêu doanh thu trên nguồn vốn quỹ cho kết quả lớn nhất là PJICO cũng chỉ là 480%, có doanh nghiệp như Liberty có 1,75%. Vì vậy, cần nghiên cứu, đưa ra biên độ tham chiếu phù hợp với tình hình thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam để hiệu quả đánh giá từ hệ thống chỉ tiêu cảnh báo sớm được tốt hơn. Muốn vậy, phải dựa vào số liệu của thị trường từ khi thành lập (20 năm); tính toán tỷ lệ cho các công ty được giám sát và sau đó xếp các công ty trên cơ sở sử dụng khoảng 10% tỉ lệ ban đầu làm nền tảng cho các biên độ tham chiếu.