Định Hướng Giám Sát Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Việt Nam Trong Thời Gian Tới



dịch vụ bảo hiểm là một trong những lĩnh vực mục tiêu. Hội nhập sâu hơn với thỏa thuận khung Tự do hóa dịch vụ tài chính (FSL) sẽ giúp tăng tỷ lệ thâm nhập của bảo hiểm trong khu vực. Tuy nhiên, cạnh tranh sẽ có thể trở nên căng thẳng do tư nhân hóa và các DNBH nước ngoài gia nhập thị trường nhiều hơn.

Một điểm đáng chú ý là sự phát triển của ngành bảo hiểm trong khu vực rất khác nhau. Thị trường bảo hiểm ở một số nền kinh tế so về mặt bằng chung quốc tế vẫn còn non trẻ và giản đơn, không có sự đa dạng về sản phẩm. Trong khi đó, một đất nước như Singapore có hầu hết các dịch vụ bảo hiểm tiên tiến nhất và trở thành một trong những trung tâm quan trọng đối với bảo hiểm trong nước và các DNBH nước ngoài. Để giảm những chênh lệch phát triển này, những nỗ lực trong khu vực là hướng tới hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm thông qua đề xuất thành lập Nhóm công tác Kỹ thuật về phi ngân hàng theo thỏa thuận Tự do hóa dịch vụ Tài chính ASEAN (FSL). Ổn định và tăng cường năng lực tài chính thông qua xây dựng năng lực tài chính đối với các nước thành viên ASEAN mới. Trên hết, những cam kết mạnh mẽ hơn từ các nước thành viên ASEAN đối với Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Hội nhập Tài chính ASEAN là yêu cầu bắt buộc cho sự phát triển trong tương lai của thị trường bảo hiểm ASEAN.

Do đặc thù riêng, quy định trong lĩnh vực bảo hiểm của ASEAN không áp dụng đầy đủ mô hình của Châu Âu; tuy nhiên, các nhà quản lý ASEAN đang hướng tới phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro, phát triển tìm kiếm các quy định tương ứng với Solvency II. Một số thị trường ASEAN có những yếu tố tương đồng với Solvency II, chủ yếu là các quy định hiện hành, đối với bảo hiểm, quy định về thẩm định tại chỗ ở Singapore, quy định về an toàn vốn nội bộ (CAR) ở Malaysia, và vốn dựa trên rủi ro khung mới (RBC) ở Thái Lan. Về xác định giá trị của các nghĩa vụ bảo hiểm, hầu hết các nước vẫn tính toán trên cơ sở sử dụng tổng giá trị (GPV) như ở Malaysia, Singapore, và Thái Lan, hoặc định giá phí bảo hiểm thuần (NPV) như tại Indonesia và Việt Nam.

3.1.2. Định hướng giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong thời gian tới

3.1.2.1. Tình hình kinh tế Việt Nam ảnh hưởng tới thị trường bảo hiểm phi nhân thọ

Do ảnh hưởng của nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam cũng gặp những khó khăn trong vài năm trở lại đây: tăng trưởng kinh tế chậm, năm 2012 GDP tăng trưởng 5,03%, đầu tư toàn xã hội 29,5% GDP, tồn kho nhiều, các doanh nghiệp sản



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

xuất cầm chừng. Năm 2012, cả nước có đến 55.000 doanh nghiệp giải thể, thị trường chứng khoán ảm đạm, thị trường bất động sản đóng băng,..đã tác động nhiều đến thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng. Cụ thể:

Với chính sách kiềm chế lạm phát, thắt chặt tín dụng, thắt chặt chi tiêu công (kể cả đầu tư và mua sắm), giảm sút đầu tư toàn xã hội đã ảnh hưởng đến việc hình thành tài sản mới làm giảm doanh thu phí bảo hiểm.

Giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam - 16

Nhiều cá nhân, tổ chức gặp khó khăn trong vấn đề tài chính, dẫn đến cắt giảm các khoản mua bảo hiểm mặc dù nhận thức được vai trò và sự cần thiết khi mua bảo hiểm. Để có được doanh thu, các DNBH đã cạnh tranh gay gắt, thậm chí không lành mạnh, bằng cách sẵn sàng hạ phí, mở rộng điều khoản, hạ mức khấu trừ. Tình trạng trục lợi bảo hiểm có nguy cơ gia tăng và tinh vi hơn,.. làm ảnh hưởng đến tính lành mạnh và bền vững của thị trường;

Với những tác động của nền kinh tế, các DNBH đã rất cố gắng có các giải pháp

để tăng trưởng như:

Tái cơ cấu doanh nghiệp, thu hẹp phạm vi hoạt động, phân cấp chi nhánh, thay

đổi người điều hành, sắp xếp lại lực lượng lao động, tăng cường đào tạo cán bộ.

Thu hẹp phạm vi bảo hiểm đối với các nghiệp vụ bảo hiểm không có lãi, giảm qui mô các sản phẩm bị lỗ hoặc không có lãi, tập trung phát triển các sản phẩm mới, phân khúc thị trường.

Cơ cấu tài chính, tận thu công nợ, trích lập dự phòng để đảm bảo khả năng thanh toán, cơ cấu lại danh mục đầu tư cho hiệu quả, rà soát xây dựng lại qui trình khai thác, giám định, bồi thường, kiểm soát nội bộ,..

Với sự nỗ lực của cơ quan quản lý và DNBH, trong những năm qua thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đạt mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng GDP. Nhưng từ năm 2011, mức tăng trưởng đã theo chiều hướng đi xuống. Năm 2013 là năm đầu tiên sau 20 năm mở của thị trường, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam tăng trưởng với 1 con số (7%), nhiều DNBH có tăng trưởng âm.

3.1.2.2. Định hướng phát triển và giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

Ngày 15/02/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 193/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011-2020, trong đó nêu rõ:



“Mục tiêu cụ thể:

- Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách về kinh doanh bảo hiểm đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và đồng bộ, tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường, bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ cam kết quốc tế của Việt Nam.

- Nâng cao tính an toàn hệ thống, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các DNBH. Phát triển các DNBH có năng lực tài chính vững mạnh, năng lực quản trị điều hành đạt chuẩn mực quốc tế, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh tích cực trên thị trường trong nước và khu vực.

- Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm, bảo đảm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm đa dạng của các tổ chức và cá nhân. Tạo thuận lợi cho các tổ chức, các nhân, đặc biệt là các đối tượng có thu nhập thấp được tham gia bảo hiểm.

- Đa dạng và chuyên nghiệp hóa kênh phân phối bảo hiểm, tạo cầu nối hiệu quả giữa các DNBH và khách hàng.

- Tổ chức công tác quản lý, giám sát thị trường chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả; phát huy mạnh mẽ vai trò thành viên của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại diễn đàn các cơ quan quản lý bảo hiểm; từng bước tuân thủ các chuẩn mực quản lý, giám sát bảo hiểm do Hiệp hội quốc tế của các cơ quản bảo hiểm ban hành.

Các chỉ tiêu:

- Tổng doanh thu ngành bảo hiểm đến năm 2015 đạt 2%-3% GDP và đến năm 2020 đạt 3-4% GDP.

- Qui mô các quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhằm đáp ứng nghĩa vụ chi bồi thường và trả tiền bảo hiểm cho khách hàng đến năm 2015 tăng gấp 2 lần và đến năm 2020 tăng gấp 4,5 lần so với năm 2010.

- Tổng nguồn vốn huy động cho nền kinh tế của các DNBH đến năm 2015 tăng gấp 1,7 lần so với năm 2010; đến năm 2020 tăng gấp 3,5 lần so với năm 2010, tương đương 3-4% GDP.

- Đóng góp vào ngân sách nhà nước của ngành bảo hiểm đến năm 2015 tăng gấp 2 lần và đến năm 2020 tăng gấp 4 lần so với năm 2010.

- Cơ quan quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm phấn đấu đến năm 2015 tuân thủ hoàn toàn 50% các nguyên tắc quản lý, giám sát bảo hiểm do Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế ban hành; đến năm 2020 sẽ tuân thủ hoàn toàn các nguyên tắc quản lý, giám sát bảo hiểm do Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế ban hành.



Tăng tốc độ tăng trưởng nộp ngân sách nhà nước đạt bình quân khoảng 20%/năm cho đến năm 2020”.

Với mục tiêu của Chiến lược phát triển thị trường giai đoạn 2011 - 2020, hoạt động giám sát thị trường theo định hướng tuân thủ hoàn toàn các nguyên tắc quản lý, giám sát bảo hiểm. Các nguyên tắc này được xây dựng dựa trên phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro. Do vậy việc tuân thủ hoàn toàn các nguyên tắc đồng nghĩa với việc phương thức giám sát thị trường của Việt Nam được chuyển dần sang phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro và được áp dụng hoàn toàn vào năm 2020.

3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM

3.2.1. Hoàn thiện thể chế giám sát

3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp qui

Trong thời gian qua hệ thống văn bản pháp qui đã ngày càng hoàn thiện làm cơ sở cho quá trình giám sát theo phương thức tuân thủ. Tuy nhiên do sự thay đổi và xu hướng phát triển của thị trường, cùng với xu hướng chung về giám sát của các nước trên thế giới đã ảnh hưởng tới xu hướng giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. Hệ thống văn bản pháp luật chưa có các qui định phù hợp với xu hướng thay đổi như phương thức giám sát, các qui định về vốn, biên khả năng thanh toán, quản trị điểu hành doanh nghiệp,... Để phù hợp với yêu cầu và xu hướng thay đổi, đòi hỏi hệ thống pháp luật phải được hoàn thiện, các qui định có định hướng thay đổi nhưng phải tính tới các điều kiện cần thiết để thực hiện các thay đổi, nên sửa đổi theo từng giai đoạn cụ thể:

Giai đoạn 1: Trong vòng 2 năm tới (2015 - 2016), tiến hành sửa đổi các Nghị định (NĐ 45/2007/NĐ-CP, NĐ46/2007/NĐ-CP) và các thông tư hướng dẫn (TT 124/2012/TT-BTC, TT125/2012/TT-BTC) về các nội dung cần thiết để đáp ứng ngay yêu cầu giám sát, vì việc sửa đổi nghị định và thông tư có thể thực hiện được nhanh hơn việc sửa đổi Luật, cụ thể:

+ Những qui định chưa phù hợp phải được sửa đổi bổ sung:

Rà soát các qui định về tiêu chuẩn cán bộ theo hướng có các qui định linh hoạt

đối với trường hợp người đứng đầu các bộ phận nghiệp vụ mới;

Về nguyên tắc kiêm nhiệm: Chỉ các chức danh cao cấp như Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc mới được kiêm nhiệm.

Nhân viên khai thác bảo hiểm phải được đào tạo về nghiệp vụ dự kiến khai thác



Sửa đổi điều kiện mở chi nhánh, văn phòng đại diện cho phù hợp với mức vốn và năng lực quản trị của DNBH; tăng cường quản trị doanh nghiệp, yêu cầu quản lý tài khoản của các chi nhánh một cách tập trung.

Yêu cầu DNBH phải duy trì vốn chủ sở hữu (có thể tính theo mức rủi ro) trong mọi thời điểm thay cho qui định duy trì về vốn điều lệ như trước đây (nội dung này đã được sửa đổi ở thông tư 125/2012/TT-BTC nhưng chưa sửa đổi ở Nghị định 46/2007/NĐ-CP).

Qui định khống chế về tỷ lệ chi phí bán hàng và chi phí quản lý; xác định tỷ lệ hoa hồng môi giới và hoa hồng đại lý cho phù hợp với từng nghiệp vụ và đối tượng thực hiện dịch vụ. Có thể khống chế chi phí bán hàng không vượt quá 20%, chi phí quản lý không vượt quá 15% theo thông lệ chung.

Sửa đổi các qui định về nợ phí bảo hiểm theo hướng ràng buộc trách nhiệm của DNBH và bên mua bảo hiểm chặt chẽ hơn.

Sửa đổi các qui định về trích lập dự phòng nghiệp vụ cho phù hợp với giữa các văn bản pháp lý và với thông lệ quốc tế. Hiện nay, các qui định về trích lập dự phòng giữa các văn bản pháp lý về tài chính và chế độ kế toán chưa thống nhất với nhau. Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 19 (VAS 19) qui định theo thông lệ của chuẩn mực kế toán quốc tế, không cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm trích lập dự phòng dao động lớn vì theo quan điểm dự phòng giao động lớn được trích lập đối với hợp đồng phát sinh trong năm nay nhưng lại được dùng để chi trả cho các tổn thất của các hợp đồng trong năm sau hoặc nhiều năm sau nữa do đó không đảm bảo nguyên tắc phù hợp, nhưng theo Nghị định 46/2007/NĐ-CP lại yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập dự phòng dao động lớn. Nghị định 46/2007/NĐ-CP quy định doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ phải trích lập dự phòng nghiệp vụ theo từng nghiệp vụ bảo hiểm đối với phần trách nhiệm giữ lại của doanh nghiệp. Trong khi, theo thông lệ quốc tế dự phòng nghiệp vụ được tính trên phí bảo hiểm chưa trừ đi phần trách nhiệm đã nhượng tái bảo hiểm.

+ Những qui định chưa có, chưa qui định phù hợp với phương thức giám sát mới cần được qui định mới

Qui định về vốn được tính trên cơ sở rủi ro;

Biên khả năng thanh toán tối thiểu được tính theo phí bảo hiểm giữ lại của năm trước liền kề;



Tăng cường kiểm soát chất lượng đào tạo đại lý theo hướng tập trung vào kết quả đầu ra (Bộ Tài chính tổ chức thi và kiểm soát chất lượng thi);

Bộ Tài chính xây dựng qui tắc, điều khoản đối với những nghiệp vụ bị lỗ triền miên qua nhiều năm; tiến tới kiểm duyệt sản phẩm của các DNBH, đưa ra mức phí sàn;

Qui định về hoạt động đồng bảo hiểm;

Chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ theo mẫu chung áp dụng cho toàn thị trường; Qui định ở mức hình sự đối với một số hành vi trục lợi bảo hiểm.

Đây cũng là giai đoạn đầu thử nghiệm phương thức giám sát mới, để thận trọng thì có thể áp dụng song song hai phương thức giám sát như kinh nghiệm của Hàn quốc.

Giai đoạn 2: Sửa đổi, bổ sung Luật kinh doanh bảo hiểm. Qui định rõ ràng các nội dung về quản lý, giám sát bảo hiểm. Qui định phù hợp với các nghiệp vụ kinh tế đang diễn ra và hệ thống pháp luật hiện nay.

Hoàn thiện các nghị định, thông tư hướng dẫn Luật, áp dụng đồng bộ các qui định pháp luật về bảo hiểm, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.

Giai đoạn này có thể thực hiện trong giai đoạn 2016 - 2017.

3.2.1.2. Tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực giám sát bảo hiểm quốc tế

Quá trình toàn cầu hóa về dịch vụ tài chính sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Hệ thống chính sách về quản lý, giám sát dịch vụ tài chính của các nước có xu hướng hồi quy trong một hành lang chung. Xu hướng đan xen giữa các định chế tài chính theo hướng hình thành các tập đoàn kinh doanh đa quốc gia sẽ phát triển và lan rộng, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, giám sát của các nước. Việc Việt Nam là thành viên chính thức của IAIS cũng đòi hỏi phải đổi mới công tác quản lý, giám sát để tiến tới áp dụng toàn bộ các nguyên tắc, chuẩn mực giám sát bảo hiểm của quốc tế theo mục tiêu đặt ra tại Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, từng bước áp dụng và tiến tới tuân thủ hoàn toàn các nguyên tắc giám sát theo thông lệ quốc tế.

Các nguyên tắc giám sát bảo hiểm của IAIS được xây dựng trên cơ sở nền tảng là phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro. Vì vậy, để đạt được mục tiêu trong chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm 2010 - 2020 Việt Nam cần thực hiện theo các bước sau:

- Tổ chức đánh giá mức độ tuân thủ từng nguyên tắc: Đối chiếu những qui định pháp luật hiện tại về bảo hiểm của Việt Nam với các qui định tại các ICPs để xác định



mức độ tuân thủ. Hàng năm, IAIS thực hiện đánh giá mức độ tuân thủ các nguyên tắc giám sát bảo hiểm của các nước là thành viên của IAIS. Việc đánh giá này thực hiện bởi các chuyên gia của ADB và IMF thông qua các dự án đánh giá mức độ tuân thủ nguyên tắc của IAIS áp dụng đối với các nước. Mức độ tuân thủ được đánh giá theo 3 mức độ là tuân thủ, tuân thủ một phần và không tuân thủ. Việt Nam có thể sử dụng kết quả đánh giá của các chuyên gia hoặc tự tổ chức đánh giá mức độ tuân thủ của Việt Nam.

- Xác định những vấn đề còn tồn tại giữa các qui định tại các văn bản pháp luật của Việt Nam và những qui định trong các nguyên tắc chưa thống nhất. Trên cơ sở đánh giá mức độ tuân thủ các nguyên tắc để chỉ ra những điểm chưa phù hợp của Việt Nam với các qui định của ICPs, có thể do nhận thức từ phía cơ quan giám sát Việt Nam, cũng có thể do điều kiện và trình độ phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam dẫn đến sự không tương đồng giữa các qui định pháp luật hiện tại và các qui định của các ICPs.

- Đưa ra các lựa chọn và giải pháp cụ thể đối với từng nguyên tắc. Đề xuất cách chỉnh sửa cho phù hợp nếu cần thiết. Các nội dung của các nguyên tắc sẽ được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật. Các qui định cần có sự phân tích, phù hợp với trình độ phát triển của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam, văn hóa và truyền thống của Việt Nam.

Để thực hiện được đề xuất này, ngoài lực lượng nhân sự từ phía cơ quan giám sát thị trường bảo hiểm Việt Nam cần có sự hỗ trợ của các tổ chức như IAIS, ADB, IMF thông qua các dự án.

Để có thể đảm bảo đồng bộ với việc sửa Luật bảo hiểm, đưa ra các đề xuất có thể luật hóa ngay trong Luật bảo hiểm mới thì các bước trong đề xuất này cần thực hiện ngay từ 2015 - 2016, phù hợp với giai đoạn 1 của đề xuất hoàn thiện các văn bản pháp qui.

3.2.1.3. Chuyển đổi phương thức giám sát

Từng phương thức giám sát sẽ chi phối đến qui trình, cách thức và các nội dung giám sát. Cơ quan giám sát nào cũng phải xây dựng cho mình một phương thức giám sát cụ thể. Xác định rõ phương thức giám sát sẽ định hướng cho các hoạt động giám sát của cơ quan giám sát. Các nước trên thế giới đều muốn tiến tới cách tiếp cận giám sát dựa trên cơ sở rủi ro. Điều đó có nghĩa là cơ quan giám sát sẽ tiến hành đánh giá các cấp độ rủi ro trong các DNBH một cách nhất quán và logic. Các doanh nghiệp được



đánh giá có rủi ro cao hơn sẽ được cơ quan giám sát tập trung nguồn lực giám sát nhằm giảm rủi ro xuống một cấp độ hợp lý hơn.

Hiện nay Việt Nam đang áp dụng phương thức giám sát tuân thủ. Phương thức giám sát tuân thủ tập trung vào đánh giá mức độ tuân thủ luật định của DNBH. Nhưng trong tình hình kinh tế đang có nhiều thay đổi, tác động sự biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên, trục lợi bảo hiểm,.. hoạt động kinh doanh của DNBH sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro. Với vai trò của cơ quan giám sát, định hướng và giúp thị trường phát triển lành mạnh, cơ quan giám sát bảo hiểm phải thực hiện giám sát sớm để chỉ ra những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra với DNBH, giúp DNBH có biện pháp điều chỉnh tránh xảy ra đổ vỡ cho thị trường. Theo xu hướng và kinh nghiệm của các nước thì việc chuyển đổi sang phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro là phù hợp. Do đó, luận án đề xuất phải đổi mới phương thức giám sát hiện nay, chuyển sang phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro. Tuy nhiên, với xuất phát điểm của Việt Nam hiện nay và yêu cầu, điều kiện cần có để thực hiện tốt phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro thì cơ quan giám sát bảo hiểm Việt Nam cần có lộ trình chuyển đổi phù hợp.

Nhiều nước sử dụng hệ thống đánh giá CAMEL (C- Vốn (Capital), A - Chất lượng tài sản (Asset quality), M - Quản lý (Management), E- Doanh thu (Earnings), L- Thanh khoản (liquidity) để đánh giá hoạt động của DNBH, như trước đây Canada, Hàn quốc,… đã làm. Căn cứ vào tình hình tài chính cụ thể của DNBH, cơ quan giám sát sẽ đánh giá từng tiêu chí C, A, M, E, L, tiến hành cho điểm từng tiêu chí. Căn cứ số điểm tổng cộng của các tiêu chí đối chiếu với bảng xếp loại tương ứng để cơ quan giám sát có biện pháp áp dụng phù hợp với từng DNBH. Hệ thống đánh giá CAMEL là phương pháp đánh giá trong giai đoạn quá độ chuyển từ phương thức giám sát tuân thủ sang phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, trình độ của cán bộ giám sát thị trường còn hạn chế, cơ sở dữ liệu hỗ trợ cho công tác giám sát còn chưa có, đề tài đề xuất nên chia lộ trình chuyển đổi thành từng bước:

Giai đoạn 1: Bên cạnh chuyển đổi dần các qui định về pháp lý, có thể sử dụng hệ thống đánh giá CAMEL làm tiêu chí đánh giá, cơ quan giám sát vẫn thực hiện giám sát theo phương thức giám sát tuân thủ nhưng kết quả giám sát đưa vào đánh giá theo các tiêu chí của CAMEL, các tiêu chí đánh giá theo CAMEL cũng phải tính dần đến các yếu tố rủi ro. Thời gian tiến hành khoảng 1-3 năm từ 2015. Trong giai đoạn này tiến hành đào tạo cán bộ, xây dựng cơ sở dữ liệu và các điều kiện cần thiết khác cho phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/12/2023