Giải quyết việc làm ở Hà Nội - 2

Dũng- Ths.Trần Hữu Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

- ―Thực trạng lao động - việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho giai đoạn phát triển 2001 - 2005‖, Bùi Văn Quán, tạp chí Lao động và xã hội, số CĐ3, 2001.

- “Xây dựng chiến lược quản lý lao động, việc làm (lấy Việt Nam làm ví dụ)”, luận án Tiến sỹ, Nguyễn Quốc Tuấn, Viện hàn lâm khoa học Ucraina, Kiev 2003.

- ― Thị trường lao động: vấn đề điều tiết của xã hội trong lĩnh vực quan hệ lao động‖, TSKH. Phạm Đức Chính, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 332, tháng 1/2006.

- “Lao động, việc làm ở nước ta: thực trạng và những vấn đề đặt ra ”, TS. Nguyễn Thị Như Hà, tạp chí Kinh tế châu á – thái bình dương, số 29, tháng 7/2006.

Ngoài ra cũng có một số đề tài luận văn thạc sỹ viết về vấn đề việc làm và thất nghiệp ở các tỉnh như: Lạng Sơn, Kiên Giang, Bắc Ninh, Hà Tĩnh … Điều đó cho thấy sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học về vấn đề việc làm và thất nghiệp. Song cho đến nay, dưới giác độ kinh tế chính trị, chưa có công trình khoa học nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu vấn đề giải quyết việc làm ở Hà Nội.

3. Mục đích nghiên cứu.

Góp phần làm rõ vấn đề giải quyết việc làm ở Hà Nội, phân tích thực trạng trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ở Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

Đối tương nghiên cứu của luận văn là vấn đề việc làm và thất nghiệp ở Hà Nội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tình trạng việc làm và thất nghiệp ở Hà Nội từ 2001 - nay. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở Hà Nội từ nay đến 2015.


Giải quyết việc làm ở Hà Nội - 2

5. Phương pháp nghiên cứu.

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích…

- Luận văn đồng thời sử dụng các quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong các văn kiện Đại hội Đảng. Ngoài ra luận văn còn kế thừa và sử dụng chọn lọc một số đề xuất và số liệu thống kê của một số công trình có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước.

6. Những đóng góp mới của luận văn.

- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và thất nghiệp ở Hà Nội từ 2000 đến nay.

- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở Hà Nội.

7. Bố cục của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung về giải quyết việc làm. Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm ở Hà Nội.

Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp giải quyết việc làm ở Hà Nội.


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM.‌‌

1.1 Thị trường lao động và vấn đề việc làm.

1.1.1 Quan niệm về việc làm trong nền kinh tế thị trường.

Lao động là hoạt động có mục đích của con người sử dụng các công cụ lao động tác động và tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người.

Lao động được coi là hoạt động đặc trưng, gắn liền với con người bởi vì thông qua hoạt động lao động con người tạo ra sản phẩm phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ, tư duy; xác lập các quan hệ xã hội. Đồng thời quá trình lao động cũng là quá trình trong đó con người làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên.

Việc làm là hình thức biểu hiện của lao động trong thực tế. Lao động là hoạt động của xã hội nói chung, phản ánh bản chất xã hội của con người nói chung còn việc làm là hoạt động cụ thể của mỗi người lao động khi tham gia vào quá trình lao động nói chung đó.

Việc làm một mặt phản ánh mối quan hệ giữa người lao động với tự nhiên bởi vì để làm việc người lao động phải sử dụng sức lao động của mình kết hợp với công cụ lao động, tác động lên đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Chính vì vậy việc làm chịu sự tác động của quy luật và điều kiện tự nhiên. Mặt khác, việc làm là kết quả của quá trình phân công lao động xã hội hình thành những ngành nghề khác nhau, mỗi người lao động tham gia quá trình lao động sản xuất với một việc làm cụ thể dựa vào kỹ năng chuyên môn của mình. Do đó việc làm biểu hiện mối quan hệ giữa những người lao động với nhau, với xã hội. Vì vậy, việc làm cũng chịu tác động của các quy luật kinh tế - xã hội.

Như vậy, việc làm là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý trong đó hoạt động lao động diễn ra. Lao động là phạm trù vĩnh viễn của xã hội loài người, việc làm là mối quan hệ giữa người lao động với một công việc, ngành nghề


cụ thể. Có những nơi, những lúc một bộ phận người lao động không có việc làm nhưng quá trình lao động sản xuất của con người không bao giờ dừng lại. Việc làm là công việc của mỗi cá nhân nhưng lại gắn liền với xã hội,

có việc làm không những người lao động có thu nhập nuôi sống bản thân mà còn tạo ra một lượng của cải cho xã hội. Với những điều kiện khác nhau không thay đổi thì khối lượng và giá trị của sản phẩm tăng lên tỷ lệ thuận với số lượng lao động được sử dụng.

Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, diễn ra sự thay đổi trong nhận thức về việc làm ở Việt Nam. Trước trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, việc làm của người lao động do nhà nước và tập thể giải quyết với chế độ biên chế suốt đời. Người lao động không được và không có khả năng lựa chọn công việc do đó cũng không có trách nhiệm và điều kiện để tự tạo việc làm cho mình và cộng đồng. Xã hội chỉ coi những người làm việc trong biên chế nhà nước hoặc xã viên hợp tác xã là những người có việc làm chính đáng, những việc làm khác bị kỳ thị. Xã hội không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm hay việc làm không đầy đủ. Quan niệm đó tạo ra tâm lý ỷ lại vào nhà nước ở người lao động khi họ cần việc làm.

Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, quan niệm về việc làm đã thay đổi, quan điểm mới về việc làm được thể hiện ở Bộ luật lao động của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007) theo đó, mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.

Trong nền kinh tế thị trường, người ta quan tâm đến một số khái niệm về việc làm như: việc làm đầy đủ, việc làm hợp lý, việc làm tự do, thiếu việc làm.

Việc làm đầy đủ là sự thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm của các thành viên có khả năng lao động, người lao động có nhu cầu làm việc đều có khả năng tìm được việc làm nhanh chóng. Khái niệm việc làm đầy đủ mới nói lên sự giải quyết việc làm về mặt số lượng, chưa tính đến việc làm đó có phù hợp với khả năng, trình độ, sở trường của người lao động hay không.

Việc làm hợp lý là việc làm không chỉ tính về mặt số lượng mà còn xét cả về trình độ, nguyện vọng, sở trường của người lao động; là sự phù hợp cả


về mặt số lượng và chất lượng của người lao động với tư liệu sản xuất.

Việc làm tự do là bước phát triển cao hơn của việc làm hợp lý, trong đó người lao động được tự do chọn lựa việc làm, thời gian làm việc phù hợp để có thể phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của mình.

Thiếu việc làm là sự phân bổ không hợp lý giữa sức lao động và các yếu tố sản xuất khác. Trong trường hợp này, người lao động vẫn có việc làm nhưng không có đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần (tháng) hoặc làm những công việc có thu nhập thấp hơn mức trung bình không đảm bảo cuộc sống nên có nhu cầu làm việc thêm để tăng thu nhập.

Mục tiêu của giải quyết việc làm là phải tạo ra việc làm đầy đủ cho người lao động, tiến dần đến tạo việc làm hợp lý và cao hơn nữa là việc làm tự do để giải phóng triệt để sức lao động. Việc làm được quan niệm không chỉ là phương tiện để con người sinh sống mà còn là nhu cầu đầu tiên của mỗi người.

1.1.2 Lý thuyết về việc làm và thất nghiệp.

Các trường phái lý luận, các lực lượng, giai cấp xã hội khác nhau có quan điểm khác nhau về vấn đề thất nghiệp. Trên cơ sở đó lý thuyết về thất nghiệp ra đời và không ngừng vận động để hoàn thiện.

Lý thuyết cổ điển về việc làm và thất nghiệp

Lý thuyết đầu tiên về thất nghiệp ra đời trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản. W.Petty là người đầu tiên đề cấp tới vấn đề việc làm và thất nghiệp dưới dạng ―nhân khẩu thừa‖, ông tìm nguyên nhân của tình trạng

―nhân khẩu thừa‖ trên quan điểm coi trọng ngoại thương và trọng tiền: nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp là do tiền trong nước chạy ra nước ngoài nên số đông dân cư trong nước không có việc làm và làm không đủ ăn, ông nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc giải quyết tình trạng trên.

Sau W. Petty đến lượt A.Smith nghiên cứu về việc làm và thất nghiệp, ông cho rằng tiền công phụ thuộc nhu cầu lao động và giá cả của các tư liệu sinh hoạt. Việc nhà nước can thiệp làm hạn chế sự cạnh tranh ở một số ngành và tăng cạnh tranh ở một số ngành khác cản trở sự di chuyển tư bản giữa các ngành, gây ra tình trạng thất nghiệp. Để giải quyết thất nghiệp phải có sự di


chuyển tự do của sức lao động tức là phải hạn chế sự can thiệp của nhà nước.

D.Ricacdo cho rằng nạn nhân khẩu thừa là không thể tránh khỏi, khả năng nuôi sống dân cư và đem lại công ăn việc làm cho công nhân của một quốc gia nào đó phụ thuộc vào tổng sản phẩm, khi tổng sản phẩm giảm xuống sẽ kéo theo giảm nhu cầu về lao động.

J.Say cho rằng nguồn gốc của nạn nhân khẩu thừa là do dân số vượt quá tư liệu sinh hoạt. Ông có gắng che đậy hậu quả của việc sử dụng máy móc dẫn đến thất nghiệp. Say cho rằng thời kỳ đầu việc sử dụng máy móc sẽ gạt bỏ một bộ phận công nhân và làm cho họ ―tạm thời‖ không có việc, nhưng cuối cùng công nhân vẫn có lợi vì do việc sử dụng máy móc, công ăn việc làm của công nhân tăng lên. Mặt khác máy móc làm rẻ việc sản xuất sản phẩm nên người công nhân được lợi hơn.

Mantuyt đã đưa ra học thuyết về quy luật nhân khẩu thừa để lý giải nạn thất nghiệp. Ông dựa vào quy luật tự nhiên: động vật sinh sôi nảy nở một cách tự nhiên trong khi thức ăn, chỗ ở có hạn nên những bộ phận thừa không có thức ăn và chỗ ở sẽ phải chết đi, phải đấu tranh để tự sinh tồn trong giới hạn đó của tự nhiên. Ông áp dụng quy luật này để giải thích nạn nhân khẩu thừa: nhân khẩu tăng theo cấp số nhân còn tư liệu sinh hoạt tăng theo cấp số cộng, khuynh hướng dân số vượt quá tư liệu sinh hoạt là quy luật nhân khẩu. Biện pháp tốt nhất là phải rút bớt nhân khẩu xuống ngang với mức tư liệu sinh hoạt bằng cách nhẫn nhục không kết hôn.

Lý thuyết của C.Mác

C.Mác xuất phát từ tích lũy tư bản và cấu tạo hữu cơ của tư bản để nghiên cứu hiện tượng nhân khẩu thừa. Ông phân chia lượng tư bản đầu tư bản đầu thành tư bản thành tư bản bất biến (đầu tư vào tư liệu sản xuất, ký hiệu là c) và tư bản khả biến (đầu tư vào thuê nhân công, ký hiệu là v), cấu tạo hữu cơ của tư bản chính là tỷ lệ c/v. Cùng với quá trình phát triển, cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng, dẫn đến tỷ lệ c/(c + v) tăng còn tỷ lệ v/(c +

v) giảm. Do vậy tạo ra một lượng nhân công thừa tương đối. Theo Mác, nhân khẩu thừa tồn tại dưới 3 hình thức: nhân khẩu thừa tương đối, nhân khẩu thừa tiềm tàng, nhân khẩu thừa đình trệ


Học thuyết của Keynes

Theo Keynes vấn đề thất nghiệp không phải là một hiện tượng độc lập của đời sống kinh tế mà là kết quả của những tính quy luật nhất định trong việc đạt được sự cân bằng của hệ thống kinh tế. Thất nghiệp là một hiện tượng trong đó cung về lao động với mức lương hiện hữu vượt quá mức độ việc làm hiện có. Nguyên nhân chính của thất nghiệp là do thiếu nhu cầu có khả năng thanh toán. Để giải quyết nhà nước cần phải can thiệp để tăng tổng cầu của nền kinh tế.

Keynes đặt ra một tình huống: khi chính phủ tăng tổng cầu ảnh hưởng như thế nào tới mức hữu nghiệp và mức thất nghiệp nếu nền kinh tế khởi đầu với công suất nhàn rỗi? Câu trả lời này phần nào phụ thuộc ở chỗ những cấu phần nào trong tổng cầu được tăng lên. Việc chính phủ chi tiêu để tăng thêm một lực lượng cảnh sát sẽ bổ sung nhiều hơn vào mức hữu nghiệp so với việc tăng chi tiêu tương tự cho ngành sản xuất điện (là ngành sản xuất bao hàm rất nhiều vốn). Đặc biệt quan trọng hơn, theo Keynes cần phải hiểu được mối quan hệ mang tính chu kỳ giữa tổng cầu với sản lượng, mức hữu nghiệp, và con số thất nghiệp. Tính trung bình thì tăng tổng cầu thêm 100% sẽ không làm tăng mức hữu nghiệp 100% hoặc giảm tỷ lệ thất nghiệp bớt 100%. Một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra kết quả này là ảnh hưởng của tình trạng công nhân không hứng thú làm việc gây ra. Khi con số thất nghiệp cao và đang tiếp tục tăng lên, một số người thực sự là muốn làm việc nhưng do bị thất nghiệp lâu dài, họ cảm thấy bi quan đến mức họ từ bỏ không tìm việc nữa. Vì họ không còn đăng ký trong số người đang tìm kiếm việc làm nên họ không thuộc lực lượng lao động và cũng không được xếp vào tình trạng thất nghiệp. Ngược lại, trong thời phồn thịnh (khi chính phủ tăng tổng cầu chẳng hạn) những người vốn trước đây đã thôi không tìm việc làm nữa nay quay trở lại lực lượng lao động vì bây giờ có cơ hội tốt để tìm được một công việc phù hợp. Do quy mô của lực lượng lao động tăng cùng với số việc làm tăng lên, nên mức hữu nghiệp và thất nghiệp bao giờ cũng nhỏ hơn sự thay đổi của tổng cầu. Nếu nhà nước muốn can thiệp để giải giảm 1% thất nghiệp thì phải cố gắng tăng nhiều hơn 1% tổng cầu.


Một số lý thuyết hiện đại về việc làm và thất nghiệp

Về cơ bản, các lý hiện đại về thất nghiệp đều thống nhất với nhau về thực chất của thất nghiệp, nguyên nhân và cách thức khắc phục thất nghiệp. Trong các lý thuyết hiện đại về thất nghiệp, nổi lên hai lý thuyết có phạm vi ảnh hưởng sâu, rộng tới chính sách kinh tế của các quốc gia trên thế giới:

- Lý thuyết của P.Samuelson: thất nghiệp xảy ra do sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng tiềm năng của nền kinh tế. Thất nghiệp gây ra tác hại nghiêm trọng cho nền kinh tế không chỉ ở tổn thất về sản lượng mà còn tổn thất về tâm lý, xã hội. Ông dùng đồ thị về thị trường lao động để lý giải thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.


Hộp 1: Thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện

Mức lương thực tế

AJ

LF

C

D

E

W1

W0

A

B

LD

Các đồ thị LD, LF, AJ tương ứng cho biết nhu cầu về lao động, quy mô lực lượng lao động, số lượng người lao động muốn làm việc tại mức lương nào đó.

LC LA

LD LB LE

Lao động (người)

Tại W0: không có thất nghiệp không tự nguyện AB là thất nghiệp tự nguyện

Tại W1: CD là thất nghiệp không tự nguyện, DE là thất nghiệp tự

nguyện.

Người thất nghiệp tự nguyện là người vẫn mong muốn có việc làm nhưng không làm việc với mức lương hiện tại.

Người thất nghiệp không tự nguyện là người không có việc làm nhưng

sẵn sàng làm việc với mức lương thị trường hiện tại.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 23/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí