giải phóng mặt bằng tại các khu công nghiệp thuộc huyện Việt Yên, Hiệp Hòa. Trong năm sở cũng đã tiếp nhận 2 đơn khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp.
Thực tế cho thấy trong những năm 2005, 2006 các dự án của các khu công nghiệp đẩy mạnh quá trình đầu tư, do đó công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn các khu công nghiệp được chú trọng. Tuy nhiên khi tiến hành giải phóng mặt bằng cơ quan nhà nước nhận được những phản ứng khác nhau từ phía người dân. Đa số công dân trên địa bàn ý thức được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa tích cực của việc xây dựng các khu công nghiệp, một số khác không đồng tình, ủng hộ chủ trương, chính sách của nhà nước, thêm vào đó là những lý do khách quan khác khiến cho công tác giải phóng mặt bằng của các khu công nghiệp gặp khó khăn, tình trạng khiếu nại còn nhiều.
Riêng trong năm 2007, Sở Tài nguyên và Môi trường đã tiếp nhận và xử lý 165 đơn, trong số đơn thư do Sở tiếp nhận là 58 đơn, đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết là 42 đơn, đơn thuộc thẩm quyền giải quyết là 16 đơn, số đơn do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh giao là 102 đơn. Như vậy so với năm 2006, số lượng đơn thư năm 2007 tăng 1, 65%, nội dung chủ yếu khiếu nại về đất đai, trong đó bao gồm cả khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp.
Năm 2008, Sở Tài nguyên và Môi trường đã tiếp 40 lượt công dân. Trong năm sở cũng nhận 90 đơn, giảm 75 đơn so với cùng kỳ năm 2006, trong đó số đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết là 18 đơn, đơn thuộc trách nhiệm của Sở Tài nguyên và môi trường xem xét, tham mưu, giải quyết là 72 đơn, đơn khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp gồm 8 đơn.Sau quá trình xem xét giải quyết thì có 04 vụ việc phải hủy, cải sửa 17 vụ việc, yêu cầu cấp dưới xem xét, giải quyết lại 10 vụ việc. Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường thì số lượng đơn thư năm 2008 giảm so với các năm trước song việc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai nói chung, đất đai
tại các khu công nghiệp nói riêng còn kéo dài, một số việc giải quyết chưa đúng pháp luật dẫn đến phải cải sửa, hủy bỏ gây phức tạp tình hình.
Trong năm 2009, Sở Tài nguyên và Môi trường đã nhận 155 lượt đơn khiếu nại về đất đai, tăng 58% so với năm 2008. Trong đó có 46 đơn không thuộc thẩm quyền, 93 đơn thuộc thẩm quyền do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh giao, 20 đơn thuộc thẩm quyền của sở, 10 đơn khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp. Sở Tài nguyên và Môi trường đã có văn bản xử lý, tham mưu giải quyết được 109/113 đơn, đạt 96,5% số đơn thư thuộc thẩm quyền. Xác định công tác tiếp dân, tiếp nhận, phân loại, xử lý và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo là trọng tâm nên lãnh đạo sở đã quan tâm chỉ đạo sát sao nên không có vụ việc tồn đọng kéo dài, các vụ việc phát sinh đã được xem xét, tham mưu giải quyết kịp thời, đảm bảo đúng thời gian, đúng chính sách pháp luật. Tuy nhiên qua kết quả rà soát, phân loại, xử lý và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo cho thấy chất lượng giải quyết đơn của các huyện còn nhiều hạn chế, việc tổ chức thực hiện quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật còn chậm và chưa dứt điểm. Đặc biệt việc giải quyết khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp còn chậm so với quy định so tính phức tạp, chủ yếu là việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng.
Năm 2010 tình hình khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai có biểu hiện phức tạp hơn. Theo số liệu tổng hợp, năm 2010 lượng đơn thư sở tiếp nhận tương đương so với năm 2009 (năm 2010: 154 đơn, năm 2009: 159 đơn), đồng thời sở đã tiếp 41 lượt người phản ánh 40 vụ việc, 2 đoàn đông người khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp Đình Trám, Vân Trung, 10 đơn khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp. Trong số 154 lượt đơn sở đã nhận có 65 đơn không thuộc thẩm quyền, 89 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của sở và đơn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh giao. Sở đã tham mưu đề xuất biện pháp giải quyết 56/61đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền, đạt 91,8%. Trong số những đơn khiếu nại có người rút đơn, có người khiếu nại đúng, nhưng có đến 27 đơn khiếu nại sai. Tình trạng khiếu nại kéo dài, vượt cấp vẫn còn.
Trong tổng số đơn gửi đến, sở Tài nguyên và Môi trường đã tập trung phân loại, giải quyết ngay những trường hợp thuộc thẩm quyền, đặc biệt quan tâm giải quyết nhanh những đơn thư khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp, tránh gây bức xúc, kéo dài. Trong số những đơn gửi đến sở đa phần là những trường hợp khiếu nại lần hai, đã qua cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Những khiếu nại lần đầu thuộc thẩm quyền giải quyết của sở ít. Những khiếu nại không thuộc thẩm quyền đã được sở hướng dẫn đến những cơ quan có thẩm quyền để được xem xét, giải quyết. Những khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp được chú ý đặc biệt, bởi lẽ số lượng đơn thư khiếu nại trong lĩnh vực này ít (chỉ chiếm 4,7% đơn thu khiếu nại về đất đai gửi tới sở) nhưng tính chất của những khiếu nại này hết sức phức tạp, dai dẳng, kéo dài. Qua kết quả phân loại và xử lý đơn cho thấy:
Thứ nhất, số lượng đơn thư khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp gửi đến sở ngày càng nhiều, năm sau cao hơn năm trước, trong đó các khiếu nại thuộc thẩm quyền của sở rất ít, chủ yếu là khiếu nại lần thứ hai.
Thứ hai, trong số những khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp chủ yếu tập trung vào vấn đề khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng, giá đất được bồi thường thấp hơn so với giá thị trường, khiếu nại về hỗ trợ tái định cư cũng liên quan đến giá đất, vị trí quy hoạch tái định cư.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Niêm Giải Quyết Khiếu Nại Về Đất Đai Tại Các Khu Công
- Đẩy Nhanh Tiến Độ Giải Phóng Mặt Bằng , Tiến Đô ̣ Xây Dưn Phát Triển Các Khu Công Nghiêp̣
- Thực Trạng Pháp Luật Giải Quyết Khiếu Nại Về Đất Đai Tại Các Khu Công Nghiệp
- Sự Chưa Hoàn Chỉnh Của Hệ Thống Pháp Luật Về Đất Đai Và Khiếu Nại Về Đất Đai Tại Các Khu Công Nghiệp Hiện Nay
- Tinh Thần Trá Ch Nhiêm Của Cá C Cơ Quan Hành Chính Ở Tỉnh
- Ý Thức Pháp Luật Của Một Bộ Phận Nhân Dân Về Sử Dụng Quyền
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Thứ ba, nội dung viết trong các đơn thư khiếu nại, tố cáo luôn thể hiện một cách tiêu cực đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của chính quyền các cấp ở địa phương, nói chung là có sự ngăn cách khá rõ giữa chính quyền và người dân.
Thứ tư, trong số các đơn thư đã phân tích, có nhiều đơn được cơ quan hành chính nhà nước chuyển sang cơ quan tư pháp, cơ quan tư pháp lại chuyển sang cho cơ quan hành chính và người dân có đơn không biết phải đến đâu để giải quyết sau vài năm nỗ lực chạy đi chạy lại theo chỉ dẫn của những người có trách nhiệm tiếp nhận đơn.
Thứ năm, trong những quyết định giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước, bản án của tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật có nhiều trường hợp không phù hợp với pháp luật; có trường hợp phù hợp với Luật Dân sự nhưng không phù hợp với Luật Đất đai và ngược lại. Tương tự có những quyết định phù hợp với luật này nhưng không phù hợp với luật khác, phù hợp với văn bản hướng dẫn này nhưng không phù hợp với văn bản hướng dẫn khác (giữa Luật Dân sự, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Đất đai). Trường hợp này thường xảy ra khi Luật Đất đai công nhận mọi hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất không có công chứng hoặc chứng nhận của chính quyền cơ sở trước ngày Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành nhưng Tòa án nhân dân lại tuyên bố hợp đồng, giấy tờ như vậy không có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật dân sự. Như vậy khi tiến hành bồi thường giải phóng mặt bằng, nếu phần đất được xác định thông qua hợp đồng mua bán giữa các bên chưa có xác nhận của chính quyền cơ sở thì áp dụng theo quy định nào của pháp luật?
Thứ sáu, theo quy định của Hiến pháp thì hệ thống cơ quan tư pháp có quyền phán quyết độc lập với bộ máy hành chính cùng cấp nhưng trong thực tế lại không xảy ra như vậy. Trong thực tế giải quyết các vụ án hành chính, Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc cấp tỉnh rất khó quyết định Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc cấp tỉnh bị thua kiện. Đây cũng chính là những bất cập trong giải quyết khiếu nại về đất đai.
2.2.2. Nôi Bắc Giang
dung khiếu nai
về đất đai tai
cá c khu công nghiêp
ở tỉnh
Khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp chủ yếu là các khiếu nại về bồi thường, giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư; khiếu nại về chế độ chính sách hỗ trợ sau khi thu hồi đất công dân thường tập trung đông người, tổ chức thành đoàn đến trụ sở cơ quan tiếp dân hoặc các doanh nghiệp.
Về chính sách trước năm 1993, Nhà nước chưa có chủ trương đền bù giá trị đất mà chỉ đền bù hoa màu, đền bù tài sản khác có giá trị trên đất thu hồi và bố trí đất khác, nếu người sử dụng có nhu cầu nhưng đến nay những
người có đất bị thu hồi khiếu nại đòi đền bù giá trị đất, do trước đây chưa nhận được đền bù kể cả tài sản trên đất. Mặt khác chính sách đền bù giá trị ở từng thời điểm khác nhau, quá trình thực hiện đền bù diễn ra ở những thời điểm giao thời giữa hai chính sách, người đi khiếu nại yêu cầu thực hiện chính sách có lợi hơn như các hộ dân ở xã Hồng Thái, huyện Việt Yên khi giải phóng mặt bằng khu công nghiệp Đình Trám, khiếu nại còn diễn ra khi người sử dụng so bì giá đền bù giữa hai dự án trên cùng một địa bàn.
Khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng thường gay gắt, công dân tụ tập đông người, người có đất bị thu hồi khiếu nại về thực hiện không đúng quy hoạch, không đúng diện tích, vị trí, giá đền bù thấp, không đáp ứng yêu cầu ổn định cuộc sống…
Các địa phương tiến hành xây dựng các khu công nghiệp thu hồi chủ yếu là đất sản xuất nông nghiệp, trong khi đó giá đền bù thấp, quỹ đất sản xuất nông nghiệp còn ít hoặc không còn để giao; nhiều trường hợp sau khi thu hồi đất nông nghiệp, giao cho các doanh nghiệp để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, người dân không chấp nhận dẫn đến tình trạng các hộ dân chống đối, không thực hiện các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đã có nhiều hành vi ngăn cản, đập phá phương tiện và chống người thi hành công vụ như ở Đình Trám.
Tóm lại, việc khiếu nại đòi đền bù, giải phóng mặt bằng phát sinh khi người khiếu nại cho rằng việc đền bù là không thỏa đáng, mức đền bù thấp hơn so với quy định hoặc giá thực tế trên thị trường.
nghiêp
2.2.3. Nguyên nhân phá t sinh khiếu nai ở tỉnh Bắc Giang
về đất đai tai
cá c khu công
Nguyên nhân dẫn đến khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp: Khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp có nhiều nguyên nhân, do đất đai liên quan đến mọi đối tượng, mọi tầng lớp, tổ chức, quan hệ về đất đai diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, có thể nêu một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, nguyên nhân do lịch sử để lại: Việc hoạch định chính sách đất đai ở nước ta nhìn nhận một cách khách quan là công việc khó khăn, phức tạp, do điều kiện lịch sử nước ta nửa đầu thế kỷ XX có nhiều biến động lớn. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945 các cuộc chiến tranh giữ nước liên tục xảy ra. Năm 1975 khi đất nước hoàn toàn giải phóng, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, từ hai chế độ, hai chính sách quản lý đất đai khác nhau nhà nước chủ trương xây dựng một chính sách đất đai thống nhất trong cả nước, điều đó không tránh khỏi những tồn tại có nguồn gốc sâu xa từ sự khác biệt nêu trên. Mặt khác, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đảng và nhân dân ta đã khẳng định và luôn kiên định, song con đường đó lại chưa có tiền lệ, hơn nữa các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã sụp đổ, điều đó càng khó khăn cho chúng ta xây dựng chính sách phát triển đất nước, trong đó có chính sách đất đai, do vậy việc hình thành, phát triển chính sách đất đai của nước ta trải qua một quá trình liên tục sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể trước năm 1980 còn tồn tại một số hình thức sở hữu chủ yếu như: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân. Từ năm 1980 đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Từ năm 1993 Luật đất đai mới được ban hành đã quy định người sử dụng đất có năm quyền, sau hai lần sửa đổi đến nay người sử dụng đất có bảy quyền. Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: "Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ hơn" [21], điều đó gắn liền với quá trình thay đổi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước trong lĩnh vực đất đai nói chung và đất đai tại các khu công nghiệp nói riêng. Đây cũng được xem là một trong những nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp.
Thứ hai, quá trình thực hiện công cuộc đổi mới bên cạnh mặt tích cực trong quản lý, sử dụng đất đã phát sinh những mâu thuẫn mà nhà nước chưa lường hết. Việc xây dựng các khu công nghiệp làm cho đất đai sản xuất bị thu hẹp, chỗ ở phải di chuyển, đời sống, việc làm khó khăn, dân số tăng nhanh,
không khí dân chủ được cởi mở hơn, trình độ dân trí được nâng cao hơn so với trước đây, có tác động mạnh của cơ chế thị trường, việc tiền tệ hóa giá trị và lợi ích về đất… Lịch sử trong quá trình quản lý sử dụng sử dụng đất cho thấy, kể từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 ở miền Nam cho đến năm 1993 chúng ta áp dụng cơ chế hoàn toàn bao cấp về đất; trong 10 năm (1993 - 2003) chúng ta không còn cơ chế bao cấp về đất đai nhưng với cơ chế hai giá đất mà giá đất do Nhà nước quy định thấp hơn giá đất trên thị trường nhiều lần đã gây nên lãng phí rất lớn trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, khoản chênh lệch giữa hai giá đất gây thất thu cho ngân sách nhà nước và làm lợi cho người được giao đất, khi thu hồi đất thì khoản chênh lệch này gây thiệt hại cho người bị thu hồi đất và làm lợi cho người được giao đất, dẫn đến tình trạng trong trường hợp nào thì Nhà nước cũng là người chịu thiệt hại về ngân sách và chỉ có người được giao đất là có lợi và vô hình chung dẫn đến tình trạng "xin - cho" về đất, hình thành nếp tư duy trong cơ chế bao cấp về đất và đây chính là môi trường tốt cho hiện tượng tham nhũng lãng phí lạm quyền trong giao đất và sử dụng tiền giao đất. Tất cả những yếu tố đó dẫn đến người sử dụng đất khiếu nại các quyết định hành chính liên quan đến lợi ích của họ mà họ cho là bị xâm hại.
Thứ ba, Nhà nước tuy đã ban hành nhiều văn bản về quản lý, sử dụng đất đai nói chung và đất đai tại các khu công nghiệp nói riêng và giải quyết khiếu nại phát sinh trong lĩnh vực này song vẫn còn thiếu và không đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa sát với thực tế năng động đang diễn ra. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phát sinh những vấn đề mới trong quan hệ đất đai, một số văn bản, một số quy định không còn phù hợp những chậm được sửa đổi, bổ sung. Những "xung đột pháp luật" trong việc thực hiện luật đất đai chậm được khắc phục, điều đó làm ảnh hưởng đến việc tổ chức thi hành pháp luật, dẫn đến quyết định hành chính thiếu chính xác, thiếu chặt chẽ làm người sử dụng đất khiếu nại. Một số chính sách có thay đổi nên những người hưởng chính sách sau lợi hơn người hưởng chính sách trước cũng là nguyên nhân gây ra khiếu nại.
Thứ tư, công tác tổ chức, tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa được quan tâm thường xuyên, nhận thức về nghĩa vụ, quyền lợi của người sử dụng đất chưa đầy đủ và có sự khác nhau giữa các vùng, ngay cả cán bộ, nhất là cấp xã cũng chưa hiểu hết các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng đất và các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Thứ năm, việc triển khai tổ chức thi hành pháp luật đất đai chưa nghiêm, còn có sai phạm. Công tác quản lý, sử dụng đất ở nhiều nơi còn buông lỏng, xem nhẹ, thiếu sâu sát, tình trạng vi phạm pháp luật, mất dân chủ, tiêu cực, tham nhũng liên quan đến đất đai xảy ra ở nhiều nơi nhất là ở cơ sở. Hiện tượng bao chiếm, mua bán, sang nhượng đất bất hợp pháp chưa được kiểm soát đầy đủ, nhiều trường hợp đã rõ nhưng chậm xử lý, một số người được cấp đất nhưng không sử dụng mà cho thuê, gây bất bình trong nhân dân.
Thứ sáu, chưa thiết lập được mặt bằng cơ sở pháp lý để quản lý và sử dụng đất, việc lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạo cơ sở cho việc quản lý và sử dụng đất ổn định tiến hành còn chậm, nhất là ở khu vực đô thị.
Thứ bảy, đối với các hộ nông dân, đất đai vốn là tài sản đặc biệt, là tư liệu sản xuất để đảm bảo đời sống, gắn liền với tình cảm thiêng liêng của gia đình, qua nhiều đời, nhiều thế hệ, nhất là những người có đất do ông cha để lại hay do công sức lao động mà có. Bên cạnh đó, quỹ đất lại có hạn, nhân khẩu của nhiều hộ gia đình tăng lên, có nhu cầu cần phải tách hộ, đòi hỏi phải có đất để sản xuất và làm chỗ ở, vì vậy lợi ích của nông dân gắn liền với đất lại càng cụ thể, thiết thực hơn. Những năm gần đây, việc xây dựng các khu công nghiệp ngày càng có hiệu quả, giá trị đất đai không ngừng tăng lên, người sử dụng đất lại được pháp luật thừa nhận có quyền sử dụng đất, những yếu tố đó đã thúc đẩy người nông dân chiếm giữ phần đất đai liên quan đến lợi ích kinh tế của họ.
Thứ tám, công tác bồi thường giải phóng mặt bằng có nhiều bất cập như: