Khu danh thắng Nhị Tam Tam Thanh nằm trong dãy núi đá vôi phía tây bắc thành phố Lạng Sơn (địa bàn phường Tam Thanh), là vùng thuộc hệ Triat, phiến thạch, các hang động này được tạo nên từ lâu đời cách ngày nay từ 360 đến 245 triệu năm. Điểm đặc biệt nhất của Khu danh thắng là động Nhị Thanh, với cảnh đẹp thiên tạo, trong có suối Ngọc Tuyền chảy uốn lượn xuyên qua động với chiều dài 570 m. Giữa động có cửa thông thiên tỏa ánh nắng mặt trời rọi xuống dòng nước.
Với diện tích trên 59 ha, nơi đây có những hang động tự nhiên kỳ thú, Núi Tô Thị với hòn Vọng Phu nổi tiếng lâu đời, các dáng núi, cảnh quan toàn khu vực hòa quện cùng với cổng tam quan, tiếng chuông chùa khiến cho như khung cảnh bồng lai. Đây còn là điểm du lịch văn hóa tâm linh số một tại tỉnh Lạng Sơn; các điểm di tích chính trong Khu danh thắng bao gồm:
Hình 2.1. Sơ đồ Khu danh thắng Nhị Tam Thanh, Núi Tô Thị, Thành Nhà Mạc.
(1) Động Nhị Thanh - Chùa Tam Giáo.
(2) Động Tam Thanh - Chùa Tam Thanh.
(3) Tượng A di đà trong động Tam Thanh.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Lý Luận Về Việc Quản Lý Và Khai Thác Tài Nguyên Du Lịch
- Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Và Khai Thác Hiệu Quả Tài Nguyên Du Lịch
- Bài Học Rút Ra Cho Công Tác Quản Lý, Khai Thác Tài Nguyên Du Lịch Ở Khu Danh Thắng
- Thực Trạng Quản Lý, Khai Thác Tài Nguyên Du Lịch Tại Hu Danh Thắng Từ Năm 014 Đến Nay [9], [10]
- Đánh Giá Hiệu Quả Khai Thác Tài Nguyên Du Lịch Tại Khu Danh Thắng
- Đánh Giá Chung Về Quản Lý Và Khai Thác Tài Nguyên Du Lịch Tại Hu Danh Thắng Nhị Tam Thanh
Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.
(4) Núi Tô Thị.
(5) Thành nhà Mạc.
Động Nhị Thanh - Chùa Tam Giáo
Động Nhị Thanh được danh nhân Ngô Thì Sĩ khám phá và tôn tạo khi ông làm Quan Đốc trấn Lạng Sơn từ năm 1777 - 1780. Ông là một bậc hiền thánh đã có công lao to lớn trong việc mở mang ruộng đất, yên ổn dân sinh và xây dựng Lạng Sơn thành khu thương mại sầm uất. Trong thời gian ngao du sơn thuỷ trong vùng, Ông đã phát hiện ra động Nhị Thanh và cho hưng công xây dựng chùa Tam Giáo là chùa trong hang động duy nhất ở Việt Nam thờ 03 Đạo (Phật Giáo - Thích Ca; Nho giáo - Khổng Tử; Đạo giáo - Lão Tử). Tại vòm cửa động Nhị Thanh, Ngô Thì Sỹ đã cho người khắc bức phù điêu chân dung trên hốc đá nhỏ ở độ cao 8m trong tư thế Kiết Già ngồi dựa vào vách đá giống như người thật của ông. Đây là bức chạm khắc chân dung có giá trị nghệ thuật độc đáo được tạo tác vào đá nhưng không làm mất đi vẻ mềm mại của thân thể.
Ngày 28/7/1779 (âm lịch), Ngô Thì Sĩ tổ chức mở hội tại nơi đây, trên chùa Tam Giáo thì tế lễ, trong động Nhị Thanh tổ chức ăn uống, ca hát, múa rối nước và các trò diễn khác trong 7 ngày 7 đêm, đêm đầu mở hội có một con hổ to như con bò đến gần sân khấu hang Thông Thiên vòng quanh đàn lễ rồi đi không thấy quay trở lại, nên dân chúng ban đêm không còn sợ hãi nữa; lại có một con Giao Long, râu và đuôi đều đỏ vào phường múa rối nước như muốn xem trò, đuổi cũng không đi, khi các trò diễn kết thúc thì không thấy đâu nữa. Sau đó Ngô Thì Sĩ đã cho tạc tượng Hổ ở bên phải và tượng Giao Long ở bên trái trước cửa động Nhị Thanh để ghi nhớ hai con vật linh thiêng.
Phía bên phải động Nhị Thanh là chùa Tam Giáo (Tam Giáo Tự). Ngô Thì Sĩ cho rằng đạo là một mà thôi, Khổng Tử, Lão Tử và Phật Thích Ca tuy tên là ba nhưng thực đạo đều thống nhất là một. Chính vì vậy ông đã đưa 3 đạo vào thờ chung một chùa và gọi là chùa Tam Giáo.
Hình 2.2: Động Nhị Thanh.
Chùa Tam Giáo
Chùa Tam Giáo còn là một loại hình kiến trúc đặc biệt: Không có mái, không có nhà, ban thờ được đặt trong các hang, hốc đá tạo nên cảm giác thiên tạo, linh thiêng. Bên trái chùa Tam Giáo là đường vào động Nhị Thanh và suối Ngọc Tuyền trong vắt ẩn hiện dưới lùm cây trông thật nên thơ hữu tình. Phía ngoài động trên cao có dòng chữ Hán "Nhị Thanh Động"với khổ chữ lớn khắc chìm vào vách đá. Vào phía trong động trên vách bên phải là hệ thống bia ma nhai với 20 văn bia đủ mọi kích thước xen kẽ nhau. Vòng sau sân khấu qua khúc ngoặt là đến hang Giao Long, du khách như lạc vào “vườn thạch nhũ”, chỗ rộng nhất đến 25m, chiều dài hút tầm mắt, trần và nền hang tương đối bằng phẳng có muôn hình nhũ đá với các hình thù khác nhau: hình con voi phục, hình rùa đang bò… Đi tiếp ra phía sau qua 3 cây cầu là đến cổng sau thông ra bên ngoài. Từ đây có thể quan sát thấy cửa động Tam Thanh với khoảng cách là 500m.
Động Tam Thanh - Chùa Tam Thanh
Động Tam Thanh và chùa Tam Thanh là di tích lịch sử văn hoá, danh thắng nổi tiếng của xứ Lạng với câu ca dao:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh, Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mảng vui quên hết lời em dặn dò"
Theo các nhà nghiên cứu cho rằng: Nơi này, xưa kia nguyên là nơi thờ tự của Đạo Giáo, do vậy Tam Thanh tức là Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Đây là ba cung Thanh cao nhất được coi là ba tiên cảnh mà ở đó mỗi cung do một vị thần cai quản, đó là Nguyên Thủy Thiên Tôn (Ngọc Thanh Đại Đế), Linh Bảo Thiên Quân (Thượng Thanh Đại Đế), và Đạo Đức Thiên Tôn (Thái thượng Lão Quân). Hiện nay trong chùa có các cung thờ như: Cung Tam Bảo (thờ Phật), Cung Đức Ông, Cung Công đồng Thánh Mẫu, Cung Ngũ Dinh, Cung Cấm (nơi thờ ADi Đà), Cung Sơn Trang. Ngày lễ hội chính của Chùa là ngày 15 tháng Giêng cũng là một biểu hiện Đạo Giáo khi xưa (một ngày lễ hội lớn trong Đạo Giáo).
Hình 2.3. Động Tam Thanh
Tượng Adiđà trong động Tam Thanh
Chùa Tam Thanh nổi tiếng bởi những giá trị văn hoá nghệ thuật của di tích. Hiện nay trong chùa còn có một hệ thống bia ma nhai khá phong phú có giá trị về mặt sử liệu và văn hoá nghệ thuật do các văn thân, thi sĩ qua các thời kỳ lịch sử lưu lại. Tấm bia có niên đại cổ nhất ở di tích là tấm bia được Binh Sứ Bắc Quân Đô Phủ, Đô Đốc Thiên Sự Vũ Quận Công Vi Đức Thắng tạc khắc vào thời Lê - Vĩnh Trị thứ 2 (1677) bia có tên là: "Trùng tu Thanh Thiền Động" nội dung bia ghi lại việc hưng công trùng tu di tích này của ông. Tấm bia cổ tiếp theo là của tác giả Ngô Thì Sĩ tạc vào năm Kỷ Hợi (1779) là một bài thơ ca ngợi cảnh đẹp sơn thủy hữu tình của di tích. Đặc biệt trong chùa có bức phù điêu Adiđà có niên đại vào thế kỷ XVII được tạc theo thế đứng vào
vách đá trong hình một lá bồ đề, kích thước cao 2,6 loại hình phù điêu tạc trên vách đá lớn nhất Việt Nam.
Núi Tô Thị
Tượng đá Nàng Tô Thị nằm trong quần thể di tích Nhị Tam Thanh đã đi vào truyền thuyết, ca dao của dân tộc ta, tượng Nàng Tô Thị chờ chồng như một biểu tượng cho lòng chung thuỷ son sắt của người phụ nữ Việt Nam.
Hình 2.4. Nàng Tô Thị trên quần thể Núi nàng Tô Thị, Thành Nhà Mạc
Thành nhà Mạc
Thành nhà Mạc nằm cạnh núi Nàng Tô Thị. Vào năm 1527, lợi dụng nhà Lê suy yếu, Mạc Đăng Dung đã phế ngôi vua Lê Chiêu Tông lập nên nhà Mạc, tồn tại gần một thế kỷ. Năm 1592, nhà Lê được Chúa Trịnh giúp đỡ đánh bật nhà Mạc ra khỏi Thăng Long. Tàn dư nhà Mạc chạy lên các tỉnh biên giới phía bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và lập căn cứ để chống lại tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh.
Thành nhà Mạc ở Lạng Sơn là một căn cứ quân sự quan trọng, hiểm yếu trấn giữ con đường độc đạo nối giữa nước ta và Trung Quốc. Thành được xây dựng bằng đá kiên cố, có lỗ châu mai. Thành dài 300m, mặt thành dày 1m, cửa được bố trí thuận tiện cho việc phòng thủ.
Hàng năm trong quần thể di tích danh thắng Nhị Tam Thanh còn tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân như: hội Lồng Tồng (hội xuống đồng) cầu một năm sản xuất tốt, đời sống được ấm no, hạnh phúc. Đặc biệt là Lễ hội chùa Tam Thanh – Tam Giáo được tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch, với nghi lễ rước kiệu đặc sắc và các hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương đến tham dự.
Khu danh thắng là di sản văn hóa quí báu của nước ta nói chung, của tỉnh Lạng Sơn nói riêng. Khu danh thắng được khai thác giá trị là điểm ngắm cảnh, tìm hiểu văn hóa - tâm linh và lịch sử.
- Giá trị về văn h a tâm linh - “t nh thiêng” của cộng đồng
Trong lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh Lạng Sơn nói chung và của thành phố Lạng Sơn nói riêng, Lạng Sơn là vùng đất giao lưu thương mại trong nước và quốc tế. Tại Lạng Sơn, giới thương nhân luôn có sự tín niệm là vùng đất được sự bảo hộ của thánh th n, đất tốt, đô thị có 03 không gian chức năng cơ bản, tối giản là: Phố chợ Kỳ Lừa là nơi tập kết, điều tiết giao thương - trung tâm đầu não, xử lý; Đồng Đăng là nơi trung chuyển tiền hàng; Nhị Tam Thanh và các đền, chùa là nơi sinh hoạt tâm linh và vui chơi. Người khắp nơi đến Lạng Sơn với mục đích kiếm tiền, nhưng đây là khu vực biên giới, dù dễ làm ăn nhưng cũng lắm giặc giã, cướp bóc, tai ương, phúc họa khó lường, do đó, các thương nhân thường nương nhờ đến chùa Tam Giáo, chùa Tam Thanh để được phù hộ độ trì cho làm ăn, buôn bán được thuận lợi, may mắn. Đồng Đăng, Kỳ Lừa, Chùa Tam Thanh trở thành biểu tượng của vùng đất phù hoa; Chùa Tam Giáo, chùa Tam Thanh được coi như những nơi linh thiêng giúp cho việc buôn bán của giới thương nhân, quan lại triều đình.
Những yếu tố riêng có của du lịch tâm linh tại Khu danh thắng như sau:
* Gắn liền với tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống các dân tộc Lạng Sơn, trong đó Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu (Đạo Mẫu) có số lượng lớn nhất cùng tồn tại với các tôn giáo khác.
* Gắn với đạo lý uống nước nhớ nguồn: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tri ân những vị anh hùng dân tộc, những vị tiền bối có công với nước, với cộng đồng dân tộc làng xã, báo hiếu tri ân bậc sinh thành.
* Gắn với những hoạt động văn hóa như hầu bóng, diễn xướng, dâng tế nhằm đáp ứng nhu tâm linh trong đời sống tinh thần.
* Gắn với rèn luyện sức khỏe, chữa bệnh, thể thao như leo núi, thiền, yoga hướng tới sự cân bằng thể chất và tinh thần.
* Gắn với yếu tố linh thiêng và những điều huyền bí.
* Du lịch tâm linh mang đặc trưng văn hóa dân tộc Tày, Nùng.
Trên cơ sở quy định của Luật Du lịch năm 2017, hiệu quả quản lý và khai thác một Khu/điểm du lịch sẽ được xác định với 05 tiêu chí như sau: (1) Giá trị, ( ) S c ch a,
(3) M c độ hấp dẫn, (4) Phạm vi ảnh hư ng và (5) hả năng khai thác
Khu danh thắng Nhị Tam Thanh, Núi Tô Thị Thành Nhà Mạc đã được xác định giá trị về về cảnh quan, văn hóa - tâm linh. Tuy nhiên trên cơ sở kinh tế học và phạm vi của đề tài thì Khu danh thắng sẽ được nghiên cứu giá trị vật chất (bằng tiền). Các tiêu chí về Sức chứa và Khả năng khai thác sẽ được nhóm lại thành chỉ tiêu về công suất và năng lực khai thác. 02 chỉ tiêu về Mức độ hấp dẫn và phạm vi ảnh hưởng được nhóm thành một chỉ tiêu riêng. Cụ thể như sau:
(1) Giá trị của Khu danh thắng cần được lượng hóa tiền tệ.
(2) Sức chứa và Khả năng sẽ được xác định, lượng hóa về công suất và năng lực khai thác.
(3) Mức độ hấp dẫn và phạm vi ảnh hưởng được xem xét thành chỉ tiêu “môi trường hoàn hảo và sự đặc biệt hóa của sản phẩm” với phương pháp định tính.
2.1.2 Quá trình hình thành Khu danh thắng
Mặc dù được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia) xếp hạng di tích cấp quốc gia đợt đầu từ năm 1962. Trải qua nhiều thập kỷ, quần thể khu danh thắng được ngành chức năng tiến hành lập quy
hoạch và điều chỉnh phù hợp với yêu cầu thực tế. Năm 2001, UBND tỉnh đã phê duyệt phương án đền bù, giải phóng mặt bằng xây dựng tôn tạo di tích danh thắng. Sau khi được triển khai tôn tạo, khu danh thắng đã đi vào hoạt động phục vụ khách tham quan, du lịch.
2.1.3 Mô hình quản lý Khu danh thắng [10]
Hiện nay, quản lý Khu danh thắng do Ban Quản lý di tích tỉnh (đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh) trực tiếp quản lý.
- Chức năng: Hướng dẫn hoạt động, quản lý bảo vệ, trùng tu, tôn tạo và phát huy các giá trị của di tích, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Trực tiếp quản lý, bảo vệ, sử dụng và khai thác Khu danh thắng.
- Nhiệm vụ: Trực tiếp quản lý, bảo vệ, sử dụng và khai thác Khu danh thắng.
- Cơ cấu tổ chức và biên chế
+Lãnh đạo Ban: 01 Trưởng Ban và 02 Phó Ban.
+ Gồm 03 Phòng và 01 Trung tâm: Phòng Hành chính; Phòng Nghiệp vụ di tích; Phòng Lưu trữ Tài liệu hiện vật; Trung tâm Khai thác dịch vụ di sản văn hóa.
+ Số lượng người làm việc: 39 người (16 biên chế, 23 hợp đồng lao động).
+ Hoạt động: Thu phí, lệ phí tại di tích từng bước đi vào ổn định để đơn vị có thể tự chủ toàn phần về mặt tài chính theo, hỗ trợ trùng tu tôn tạo di tích Nhị-Tam Thanh, Núi Tô Thị, Thành Nhà Mạc; bảo vệ môi trường, an ninh trật tự, góp phần đem lại nguồn thu ngân sách đáng kể và giải quyết việc làm, dịch vụ cho nhân dân xung quanh khu vực di tích.
2.1.4 Chức năng, nhiệm vụ Khu danh thắng
- Khu danh thắng có vị trí vai trò là trung tâm các điểm đến của du lịch thành phố Lạng Sơn, vừa có chức năng là vùng lõi di sản của thành phố, của tỉnh, vừa có vai trò là điểm đến có tính động lực đối với việc phát triển du lịch, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật dịch vụ của du lịch thành phố Lạng Sơn.