+ Kiểm tra trong khi cho vay giúp cho cán bộ tín dụng cho vay đúng đối tượng, nhu cầu vay của khách hàng, việc kiểm tra trên thông thường dựa trên các hoá đơn tài chính, hợp đồng kinh tế...
+ Kiểm tra sau khi cho vay: Sau khi giải ngân cán bộ tín dụng cần kiểm tra xem khách hàng có sử dụng tiền vay đúng mục đích đề nghị vay không, thường kiểm tra thực tế tài sản sau khi vay để tránh việc khách hàng ký hợp đồng và hoá đơn khống để chuyển tiền vào tài khoản của người thụ hưởng rồi rút tiền mặt, không có tài sản thực tế.
Ngoài ra trong quá trình cho vay phải thường xuyên kiểm tra tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, việc kiểm tra có thể định kỳ, hay đột xuất. Việc kiểm tra giúp cho cán bộ tín dụng đánh giá được chính xác hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng và tránh việc bố trí khi có sự kiểm tra từ phía ngân hàng.
3.2.1.2. Hoàn thiện chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là các nguyên tắc và tiêu chuẩn tín dụng cơ bản đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng và góp phần quản trị rủi ro tín dụng. Do đó, hoàn thiện hệ thống chính sách tín dụng tại mỗi NHTM là một giải pháp vô cùng quan trọng để góp phần ngăn ngừa rủi ro tín dụng. Để đảm bảo chính sách tín dụng được sử dụng và vận dụng hữu ích vào hoạt động kinh doanh thì tại mỗi NHTM Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các nội dung sau:
Một là, chính sách tín dụng trước hết các NHTM phải đảm bảo thực hiện đúng các quy định liên quan đến chỉ đạo hoạt động tín dụng của NHNN trên cơ sở đặc thù của hệ thống mỗi NHTM để chi tiết hóa các nội dung. Chính sách tín dụng được coi kim chỉ nam hành động cho tòan hệ thống thực hiện do đó cần chi tiết hóa giúp dễ dàng trong quá trình triển khai thực hiện, cụ thể hoá các quy định về các đối tượng khách hàng cần tập trung cấp tín dụng, đối tượng khách hàng hạn chế và không cấp tín dụng, cơ cấu cấp tín dụng theo kỳ hạn, theo ngành, theo khu vực phù hợp cũng phải cụ thể.
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Iểm Định Cronbach’S Alpha Cho Các Thang Đo Chính Thức
- Đánh Giá Thực Trạng Chất Lượng Tín Dụng Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Mục Tiêu, Định Hướng, Chiến Lược Hoạt Động Tín Dụng Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Nhóm Giải Pháp Phát Triển Hệ Thống Công Nghệ Thông Tin Tín Dụng, Hiện Đại Hoá Hệ Thống Công Nghệ Ngân Hàng Và Nâng Cao Công Tác Tổ Chức
- Tiếp Tục Phát Huy Thế Mạnh Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam Là Hướng Về “T M Nông”
- Nh M Nhân Tố Thuộc Về Chính Sách Tín Dụng: Gồm
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
Xây dựng chính sách tín dụng đúng, đầy đủ, phù hợp sẽ giúp cho việc phát triển hoạt động tín dụng, kiểm soát rủi ro tín dụng đi đúng định hướng và trong tầm kiểm soát. Thông qua các nội dung và định hướng chính sách tín dụng, hoạt động tín dụng được điều tiết từ định hướng phát triển, chính sách ứng xử đối với khách hàng đến các bước thực hiện nghiệp vụ tín dụng, theo đó chính sách tín dụng phải quy định và chỉ ra trách nhiệm của từng người, từng bộ phận liên quan đến hoạt động thẩm định cấp tín dụng và hoạt động giám sát sau khi cấp tín dụng của NHTM.
Việc xây dựng chính sách tín dụng phải đảm bảo đầy đủ và phù hợp với quy định những nguyên tắc chung và cơ bản nhất của hoạt động tín dụng nhằm thống nhất hoạt động cấp tín dụng đối với các tổ chức và cá nhân trong biên độ rủi ro hợp lý. Chính sách tín dụng phải được xây dựng trên những cơ sở nhất định theo các quy định của pháp luật, các qui định của NHNN về hoạt động tín dụng; định hướng chiến lược dài hạn của ngân hàng; phương châm kinh doanh đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
Hai là, Chính sách tín dụng cần mang tính dài hạn đón đầu được những thay đổi về tình hình kinh tế – tài chính; chính sách tín dụng cần đưa ra các công cụ để lượng hóa rủi ro cũng như cảnh báo rủi ro cụ thể nhằm giúp cán bộ tín dụng có thể nhận diện sớm rủi ro và đưa ra biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Ba là, Xây dựng chính sách tín dụng đúng, đầy đủ, phù hợp sẽ giúp cho việc phát triển hoạt động tín dụng, kiểm soát rủi ro tín dụng đi đúng định hướng và trong tầm kiểm soát. Thông qua các nội dung và định hướng chính sách tín dụng, hoạt động tín dụng được điều tiết từ định hướng phát triển, chính sách ứng xử đối với khách hàng đến các bước thực hiện nghiệp vụ tín dụng, theo đó chính sách tín dụng phải quy định và chỉ ra trách nhiệm của từng người, từng bộ phận liên quan đến hoạt động thẩm định cấp tín dụng và hoạt động giám sát sau khi cấp tín dụng của NHTM.
Việc xây dựng chính sách tín dụng phải đảm bảo đầy đủ và phù hợp với quy định những nguyên tắc chung và cơ bản nhất của hoạt động tín dụng nhằm thống nhất hoạt động cấp tín dụng đối với các tổ chức và cá nhân trong biên độ rủi
ro hợp lý. Chính sách tín dụng phải được xây dựng trên những cơ sở nhất định theo các quy định của pháp luật, các qui định của NHNN về hoạt động tín dụng; định hướng chiến lược dài hạn của ngân hàng; phương châm kinh doanh đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, mỗi một ngân hàng cần phải có một chính sách tín dụng khác nhau phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh và chiến lược phát triển của ngân hàng thương mại mình dựa trên điều kiện thị trường, môi trường chính sách vĩ mô và đồng thời phải có những nội dung cơ bản sau:
• Phân cấp quản lý ưu tiên khách hàng và đối tượng khách hàng theo từng vùng địa lý theo chiến lược của ngân hàng. Quy định rõ ràng những trường hợp khuyến khích cho vay, hạn chế cho vay, thận trọng trong cho vay và không cho vay.
• Xây dựng một chính sách tín dụng an toàn, hiệu quả và toàn diện với một hoặc một số nhóm khách hàng. Để ra quyết định quan hệ tín dụng đối với một đối tượng khách hàng, ngân hàng phải phân tích tình hình khách hàng một cách toàn diện. Phải căn cứ vào danh mục tín dụng ngân hàng: loại tín dụng, kỳ hạn tín dụng, độ lớn tín dụng và chất lượng tín dụng.
• Quy trình xử lý công việc, phân cấp chịu trách nhiệm trong công việc và báo cáo thông tin trong nội bộ các bộ phận có chức năng cấp tín dụng.
• Quy trình tiếp nhận, kiểm tra và ra quyết định đối với các nhu cầu vay vốn của khách hàng. Quy trình thẩm định phải đảm bảo tính khoa học đồng thời hạn chế được rủi ro.
• Danh mục các loại tài sản có thể chấp nhận làm tài sản đảm bảo và những loại tài sản không được ngân hàng chấp nhận làm tài sản đảm bảo.
• Đồng thời, chính sách tín dụng phải đạt được các mục tiêu:
Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định hoạt động tín dụng của NHNN, đồng thời phải được xây dựng dựa trên sự phân tích, đánh giá, dự báo tình hình kinh tế – xã hội để xây dựng những cơ cấu tín dụng hợp lý, mức giới hạn cho vay, thị trường hướng tới
Các khoản vay phải phù hợp và có khả năng thu hồi cao nhất
Tạo ra các khoản đầu tư vốn với mức sinh lời cao và rủi ro thấp.
Khuyến khích mở rộng tín dụng đáp ứng nhu cầu của thị trường, sản phẩm cho vay, mục đích sử dụng vốn
Phải xác lập được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp phê duyệt, cấp quản lý điều hành trong hoạt động tín dụng.
Có sự phân công, quản lý, kiểm tra ch o và phối hợp giữa các bộ phận phòng ban trong điều hành và kiểm soát hoạt động tín dụng, đồng thời phải phù hợp với khả năng và trình độ của cán bộ tín dụng đảm nhận trong từng khâu nghiệp vụ.
Bốn là, đẩy mạnh công tác giám sát và thực hiện đúng chính sách tín dụng ban hành. Công tác giám sát việc thực hiện chính sách tín dụng không chỉ dừng lại ở kiểm soát giới hạn quy mô tín dụng, kiểm soát các chỉ đạo cho vay bằng ngoại tệ mà cần đẩy mạnh kiểm soát các chính sách tín dụng liên quan đến ngành nghề, đối tượng cho vay nhằm kiểm soát tốt danh mục tín dụng giải ngân.
Để đạt được các mục tiêu này, chính sách tín dụng cần phải mang tính linh hoạt, mềm dẻo và được cập nhật thường xuyên để phản ánh môi trường hiện tại và xu thế phát triển của nền kinh tế.
3.2.1.3. Nâng cao chất lượng công tác thu thập, xử lý thông tin trong quản lý chất lượng tín dụng
Để tăng cường quản lý, phòng ngừa RRTD, NHNo&PTNT Việt Nam cần phải có một hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích có khả năng đo lường được rủi ro trong hoạt động tín dụng, bởi vì:
+ Thông tin có vai trò quan trọng trợ giúp đắc lực cho cán bộ thẩm định có thể đánh giá, phân tích, dự báo và đưa ra những nhận định chính xác hơn về khách hàng, về dự án của khách hàng, qua đó phòng tránh được rủi ro cho NHNo&PTNT Việt Nam.
+ Hiệu quả của quy trình đo lường RRTD phụ thuộc nhiều vào chất lượng của hệ thống thông tin quản lý. Nhưng hiện nay việc lưu trữ thông tin của khách hàng vay vốn của NHNo&PTNT Việt Nam qua hệ thống máy tính còn quá ít và không thể kết nối thông tin giữa các vùng hay khu vực. Trong khi đó, để áp dụng phương pháp tính điểm thì dù là nhóm khách hàng doanh nghiệp hay cá nhân đều có sử dụng những tiêu chí về mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Do đó, với những khách hàng mới thường có ích thông tin lưu trữ trên hệ thống máy tính của NHNo&PTNT Việt Nam nên cần tiếp tục cập nhật, khai thác thêm thông tin về khách hàng, có thể từ các nguồn như tình hình vay, trả nợ gốc và lãi của khách hàng; từ phía đối tác của khách hành; từ các cơ quan quản lý có liên quan, từ các phương tiện thông tin đại chúng, từ mạng Internet...
Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân sự, năng lực quản trị điều hành nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng
3.2.1.4. Nâng cao chất lượng nhân sự thực hiện nghiệp vụ tín dụng
NHNo&PTNT Việt Nam cần có một chiến lược cụ thể để không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng và có chính sách đãi ngộ hợp lý, thường xuyên đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ tinh thông và có đạo đức nghề nghiệp.
NHNo&PTNT Việt Nam cần thực hiện việc đào tạo chuyên sâu cho cán bộ quản lý CLTD không những là để đáp ứng nhu cầu hiện tại mà còn hướng tới việc hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và quốc tế. Các cán bộ quản lý CLTD không chỉ cần phải tinh thông nghiệp vụ mà còn cần phải giỏi ngoại ngữ, am hiểu pháp luật và các thông lệ quốc tế, sử dụng thành thạo các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công việc, có khả năng hiểu biết và phân tích diễn biến thị trường, nắm chắc pháp luật và có phẩm chất đạo đức tốt.
Công tác đào tạo cán bộ tín dụng nói chung và cán bộ quản lý CLTD nói riêng cần đáp ứng được yêu cầu về trình độ nghiệp vụ kinh doanh cao có tính năng động, nhạy bén, có vốn hiểu biết nhất định về thị trường và lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng của mình đang tiến hành sản xuất kinh doanh vì nó liên quan trực
tiếp đến chất lượng của từng món vay. Điều này thật khó đạt được nếu một cán bộ tín dụng, hay một cán bộ quản lý CLTD phụ trách nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, cần có sự chuyên môn hoá trong cán bộ tín dụng và cán bộ quản lý CLTD. NHNo&PTNT Việt Nam nên chỉ đạo các chi nhánh phân công mỗi cán bộ phụ trách quản lý một mảng, một lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhất định được chia theo ngành. Tuỳ theo trình độ, năng lực của từng người để ban lãnh đạo phân công công việc phù hợp. Việc chuyên môn hoá như vậy sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng, cán bộ quản lý CLTD dễ dàng giám sát, gắn bó chặt chẽ với khách hàng trong sử dụng vốn vay.
Bên cạnh việc thực hiện chuyên môn hoá ngân hàng phải không ngừng nâng cao kiến thức cho cán bộ tín dụng, cán bộ quản lý CLTD bằng cách định kỳ mở các lớp huấn luyện bồi dưỡng cán bộ về nghiệp vụ, thị trường, công nghệ, kiến thức về tin học và ngoại ngữ. Đây là những yếu tố giúp cán bộ làm công tác tín dung, công tác quản lý CLTD vững vàng, tự tin hơn trong công việc của mình. Vì vậy, NHNo&PTNT Việt Nam cần tạo điều kiện, khuyến khích cán bộ, nhân viên học tập nâng cao trình độ, tạo cho họ điều kiện học tập, nghiên cứu.
Công tác quản lý, phòng ngừa RRTD rất phức tạp, đa dạng, có liên quan đến hầu hết các ngành, các thành phần kinh tế các ngành luật của hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế. Để tránh mâu thuẫn chồng ch o đảm bảo vừa đúng pháp luật, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, cán bộ quản lý, phòng ngừa RRTD phải am hiểu pháp luật một cách sâu sắc. Do vậy, NHNo&PTNT Việt Nam thường xuyên có những cuộc hội đàm, hội thảo, tập huấn, khóa bồi dưỡng hay đào tạo ngắn ngày về những lĩnh vực pháp luật có liên quan, cử các cán bộ đi học hoặc mời các chuyên gia về pháp luật đến giảng dạy ngay tại chi nhánh.
Cán bộ quản lý, phòng ngừa RRTD phải có kiến thức dự báo, kiến thức ngoại ngữ, tin học, có trình độ lý luận, có khả năng thiết lập, thu thập và xử lý thông tin. Trên cơ sở đó khai thác triệt để thông tin từ phía khách hàng, trên các phương tiện thông tin đại chúng làm cơ sở phân tích và dự báo nguy cơ tiềm ẩn RRTD có thể xảy ra. Đây là kế hoạch có tính lâu dài, cần thiết cho hoạt động quản lý CLTD. NHNo&PTNT Việt Nam nên thiết lập mối quan hệ với các trung tâm
nghiên cứu, các viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo về lĩnh vực ngân hàng và quản lý rủi ro để tiếp cận với cái mới từng bước trang bị kiến thức cho cán bộ.
Cán bộ ngân hàng vừa là người trực tiếp cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, vừa là người trực tiếp quan hệ với khách hàng. Vì vậy mối quan hệ giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng quyết định đến chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng.
Thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh xin vay vốn của khách hàng chính là việc đưa ra những nhận định về khả năng trả nợ của dự án, phương án đó. Để chất lượng thẩm định dự án, phương án đạt chất lượng các chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam cần bố trí những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm trong nghiệp vụ tín dụng, thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận và khoá học về thẩm định dự án để cập nhật thông tin, cách thức thẩm định dự án. Áp dụng công nghệ phần mền về thẩm định dự án, trên cơ sở đó để đưa ra các kết quả chính xác và nhanh chóng.
Thẩm định dự án có nhiều lĩnh vực khác nhau, cán bộ làm công tác thẩm định cần tham khảo và tìm hiểu các thông tin, dự án cùng lĩnh vực đầu tư để đưa ra các nhận định chính xác.
Để đánh giá tính hiệu quả của dự án, trong quá trình thẩm định dự án cần phải thẩm định sự uy tín, khả năng tài chính của khách hàng. Trong quá trình thẩm định cần đánh giá dự án trên phương án động, các tình huống có thể xảy ra, trên cơ sở đó để so sánh và đánh giá độ nhạy của dự án đó để xem xét quyết định cho vay.
Thẩm định tài chính giúp cho ngân hàng đánh giá đúng thực trạng tài chính của khách hàng trước khi có quyết định đầu tư, chẳng hạn chỉ xét duyệt cho vay đối với các dự án khả thi và khách hàng có đủ nguồn vốn tự có tham gia như cam kết… sẽ hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Trong thẩm định các dự án đầu tư, tình trạng nâng giá trị thực tế của dự án để được vay nhiều hơn, thuê đất nhiều hơn khá phổ biến. Điều này đã dẫn đến rủi ro bởi vốn tự có tham gia thực sự của khách hàng vay chiếm tỷ lệ thấp dẫn đến tính chịu trách nhiệm của khách hàng không cao, đồng thời khi rủi ro
xảy ra thì khả năng thu hồi được nợ đã giảm sút. Để đảm bảo xác định khách quan và chính xác giá trị tài sản bảo đảm, cần thuê một tổ chức định giá hoặc kiểm toán độc lập, có uy tín để thực hiện việc kiểm toán toàn bộ việc thanh quyết toán giá trị công trình và định giá tài sản và giải ngân đối ứng theo tiến độ công trình.
RRTD thường bắt đầu từ những phân tích và thẩm định tín dụng không cẩn trọng và thiếu chính xác dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm. Đây là bước cực kỳ quan trọng và đảm bảo hạn chế RRTD với hiệu quả cao nhất, ít tổn thất nhất. Quá trình thẩm định cần đáp ứng được yêu cầu về chất lượng phân tích và thời gian ra các quyết định, đảm bảo sự cẩn trọng hợp lý trên cơ sở phân tích lợi nhuận và rủi ro cũng như đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng phục vụ khách hàng. Giải quyết các đòi hỏi này cần thực hiện:
Để thực hiện tốt yêu cầu này, cần chú trọng đến phân tích định lượng, lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng qua đánh giá các số liệu, đồng thời kết hợp với phân tích định tính (phân tích môi trường vĩ mô, vi mô, môi trường nội bộ của khách hàng, lịch sử quan hệ tín dụng với ngân hàng…) để nhận ra những rủi ro tiềm tàng và khả năng kiểm soát, hạn chế những rủi ro đó của ngân hàng. Trong phân tích định lượng, ứng dụng và hoàn thiện hệ thống cho điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng. Thông qua việc sử dụng các mô hình định lượng, mức độ rủi ro sẽ được lượng hóa hợp lý, phản ánh một cách rõ ràng hơn mức độ rủi ro của các khoản vay dự kiến và xây dựng những biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trước khi cấp tín dụng với khách hàng. Nỗ lực xác định giới hạn tín dụng hợp lý sẽ giúp cho chi nhánh luôn ở thế chủ động và có giải pháp kiểm soát RRTD một cách hiệu quả.
Trên cơ sở giới hạn tín dụng đã được phê duyệt, trong từng lần cấp tín dụng nên tập trung phân tích rủi ro của chính phương án vay đó để giảm bớt thời gian xử lý các giao dịch. Trong phân tích này, cần tập trung đến tính pháp lý của phương án/dự án vay, đến nguồn cung cấp, thị trường và khả năng tiêu thụ,…Đồng thời cần đưa ra những rủi ro dự kiến, khả năng kiểm soát của ngân hàng và kịch bản xử lý khi những tình huống xấu xảy ra.
Cần phối kết hợp chặt chẽ các điều kiện tín dụng trong hợp đồng tín dụng như lãi suất, tỷ lệ vốn tự có tham gia phương án/dự án, các tài sản bảo đảm…để đảm bảo lợi ích thu được phải tương xứng với mức độ rủi ro. Dựa trên mức lãi suất cơ bản của NHNo&PTNT Việt Nam ban hành và chi phí vốn của mình, chi nhánh cấp 1 chủ động xác định mức lãi suất phù hợp đối với từng khách hàng, đồng thời cần xây dựng biểu lãi suất theo thang bậc sử dụng vốn vay của khách hàng (phần dư nợ vay vượt giới hạn tín dụng tham khảo nhưng vẫn trong giới hạn tín dụng được phê duyệt phải áp dụng mức lãi suất cho vay cao hơn). Các khách hàng có mức độ xếp hạng tín dụng càng thấp thì cần nâng tỷ lệ tham gia của vốn tự có, cần lựa chọn những tài sản bảo đảm có tính thanh khoản cao…Các điều kiện pháp lý trong hợp đồng tín dụng càng chặt chẽ càng đảm bảo các quyền lợi của các chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam khi rủi ro xảy ra, đồng thời nâng cao trách nhiệm của khách hàng trong sử dụng vốn vay, hạn chế rủi ro xảy ra.
3.2.1.5. Th y đổi nhận thứ , năng lực quản trị điều hành nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng
Xét về tổng thể, hệ thống NHTM Việt Nam nhìn chung đã chú trọng công tác quản trị rủi ro nói chung và đặc biệt là quản trị rủi ro tín dụng nói riêng một cách nghiêm túc trong quá trình kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên, về phương pháp đo lường rủi ro tín dụng, cách thức thực hiện quản trị rủi ro tín dụng giữa các NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều điểm khác nhau. Nguyên nhân về sự khác biệt này một phần là do yếu tố khách quan về qui mô kinh doanh của từng ngân hàng nhưng phần khác cũng phụ thuộc vào nhận thức về chiến lược xây dựng hệ thống quản trị rủi ro của từng NHTM. Vì vậy, để trong tương lai gần nhất các NHTM Việt Nam có chung một quan điểm về xây dựng hệ thống quản trị rủi ro thì các NHTM cần thay đổi nhận thức và thực hiện cấp bách các biện pháp sau:
Song song với những giải pháp nhằm giải quyết các khoản nợ xấu từ hoạt động cho vay trong quá khứ, các NHTM Việt Nam nên nhanh chóng xây dựng các giải pháp có tính chiến lược bằng cách thiết lập hệ thống quản trị rủi ro tiên tiến
theo các chuẩn mực của ngân hàng quốc tế, nhằm phòng ngừa rủi ro trong tương lai, thay vì phải giải quyết “sự đã rồi” như thời gian vừa qua.
Nhanh chóng xây dựng hệ thống quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế: Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế luôn đòi hỏi các NHTM phải đáp ứng các yêu cầu về quản trị nói chung và quản trị rủi ro tín dụng (bao gồm rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục) nói riêng theo chuẩn mực quốc tế nhằm mở ra các cơ hội để ngành ngân hàng có thể tiếp cận nhanh và gần hơn với các chuẩn mực quốc tế về quản trị trong kinh doanh ngân hàng. Thực tế hiện nay đã cho thấy, hiệp ước Basel là một thước đo chung để quản trị rủi ro mà các NHTM Việt Nam cần nghiêm túc nhận thức, xây dựng và thực hiện. Một ngân hàng tuân thủ hiệp ước Basel đồng nghĩa với việc có một hệ thống quản trị rủi ro tiên tiến, hiện đại, đảm bảo thực hiện chuẩn mực tối thiểu để đánh giá rủi ro ngân hàng phải đối mặt, đảm bảo đủ vốn, tăng hiệu quả hoạt động cho từng NHTM và toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam [12].
Quản trị rủi ro hoạt động ngân hàng nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng vẫn là một chức năng rất cần thiết đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh các nền kinh tế thế giới ngày càng chịu tác động lẫn nhau một cách mạnh mẽ, cùng với kinh tế vĩ mô trong nước luôn biến động, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước chưa được cải thiện thì các NHTM cần xây dựng khẩu vị rủi ro, khả năng chịu đựng và các giới hạn rủi ro, cũng như làm thế nào để nâng cao quy trình, kiểm soát và quản trị các nguồn lực phục vụ cho hoạt động NHTM và hoạt động cấp tín dụng.
Giải quyết các vấn đề rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng không chỉ đơn giản dừng lại ở tư duy là hạn chế tổn thất và giảm thiểu chi phí thực hiện kinh doanh cho chính mỗi một hệ thống NHTM riêng lẻ nào mà phải nhằm mục đích chủ động cảnh báo rủi ro cho nhau và hiểu rõ hơn hoạt động kinh doanh của ngân hàng có tính liên thông, bắc cầu với nhau và với các lĩnh vực khác trong toàn bộ nền kinh tế nhằm xây dựng hệ thống NHTM Việt Nam vững mạnh, cạnh tranh và hội nhập quốc tế một cách thông suốt.
Về phía quản lý của NHNN cần phải xem các nội dung của hiệp ước Basel là công cụ chỉ dẫn, phương pháp tính toán, dữ liệu, dựa trên các đặc thù về con
người, khẩu vị rủi ro của NHTM Việt Nam và danh mục tài sản mà các NHTM đang nắm giữ để đưa ra các quy định, hướng dẫn từng bước triển khai các nội dung hiệp ước Basel cho các NHTM. Đồng thời cần có lộ trình thời gian phù hợp nhằm phê chuẩn cho các NHTM Việt Nam áp dụng và tuân thủ các nội dung theo hiệp ước Basel 2 và tiến đến là Basel 3 nhanh chóng khả thi và an toàn.
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao tính cân đối trong công tác huy động và sử dụng nguồn vốn, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
3.2.2.1. Nâng cao tính cân đối giữa ông t huy động và sử dụng nguồn vốn
Công tác cân đối vốn là một nghiệp vụ tổng hợp có liên quan đến cả hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn. Do đó, để có thể nâng cao tính chất cân đối ở ngân hàng thì ngân hàng cần có các giải pháp như [29]:
- Mở rộng khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trên cơ sở chọn lựa kỹ khách hàng, phân tích chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng. Trong đó chú trọng tìm kiếm những khách hàng là những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để cho vay đầu tư kh p kín đồng bộ cả vốn trung và dài hạn, ngắn hạn.
- Hoạt động tín dụng ngân hàng cần hoàn thiện các thủ tục cho vay với khách hàng. Ngân hàng thống nhất mẫu biểu và thực hiện một cách nhanh chóng các thủ tục này, một số thủ tục chi nhánh có thể làm thay khách hàng vì ngân hàng thực hiện sẽ nhanh hơn, đỡ tốn k m hơn, ngân hàng cần dành thời gian vào công tác giám sát thực tế vì đây mới là hoạt động mang tính chất quyết định đến CLTD của ngân hàng.
- Ngân hàng cần có một thái độ phục vụ văn minh, kể cả những hành động nhỏ như: giải thích mềm mỏng, đơn giản, dễ hiểu giúp cho khách hàng hiểu rõ về các dịch vụ hiện tại của Agribank đang cung ứng, về quyền lợi và trách nhiệm của khách hàng khi ký kết các hợp đồng tín dụng
- Ngoài ra, ngân hàng cần làm tốt chính sách khách hàng, phân loại, chọn lọc khách hàng. Áp dụng các chính sách ưu đãi như lãi suất, ưu tiên cho vay, ưu tiên trong cung cấp dịch vụ ngân hàng…
- Với nguồn vốn huy động từ dân cư, cần đẩy mạnh quảng cáo, thông tin trên truyền hình, báo chí để mọi người biết được những lợi ích cụ thể sẽ nhận được nếu gửi tiền tại ngân hàng. Đồng thời tăng cường áp dụng công nghệ mới bảo đảm việc gửi tiền, rút tiền của khách hàng được nhanh chóng an toàn và thuận tiện. Bên cạnh việc đưa ra nhiều hình thức huy động với lãi suất linh hoạt, ngân hàng có thể thực hiện chiết khấu hay mua lại các chứng từ có giá đối với những người có nhu cầu rút trước hạn. Từ đó, dân chúng sẽ yên tâm gửi tiền lâu dài tại ngân hàng. Ngân hàng cũng cần tiếp tục giữ mối quan hệ tốt với các TCTD trong và ngoài hệ thống, bởi vì vốn vay các TCTD sẽ góp phần giải quyết các nhu cầu vốn cấp bách của ngân hàng.
Trên cơ sở yêu cầu sử dụng vốn ngân hàng ác định quy mô cơ cấu nguồn vốn cho phù hợp đảm bảo tính cân đối với hoạt động sử dụng vốn
Công tác huy động vốn là hết sức quan trọng với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, sản phẩm của nó là tiền đề cho công tác sử dụng vốn. Theo định hướng phát triển và công tác sử dụng vốn như trên, hoạt động huy động vốn cũng cần có sự điều chỉnh thích hợp. Cụ thể là:
- Agribank cần coi trọng nguồn vốn sao cho có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đề ra, chính sách huy động vốn phải phù hợp với khả năng phát triển của nền kinh tế, với tập quán tiêu dùng và tiết kiệm của nhân dân địa phương;
- Trong quá trình huy động vốn, cần chú ý tăng cường huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, đó là một đòi hỏi lớn trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa;
- Agribank gắn việc huy động tiền gửi với việc cho vay nhu cầu sản xuất tiêu dùng;
- Đa dạng hóa nguồn vốn thông qua việc đưa ra nhiều hình thức huy động và qua nhiều kênh khác nhau. Đi đôi với giải pháp tạo vốn trực tiếp, còn có giải pháp liên quan đến kỹ thuật nghiệp vụ của bản thân ngân hàng để mở rộng nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu thị trường. Đó là tăng tốc độ luân chuyển vốn và thực hiện tốt công tác thu nợ, tránh để tình trạng nợ quá hạn kéo dài;