Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản cố định, nghĩa là đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kĩ thuật mở rộng sản xuất, xây dựng xí nghiệp và công trình mới. Hình thức tín dụng này thường có mức độ rủi ro cao hơn vì khả năng thu hồi vốn chậm hơn.
Cho vay tiêu dùng: Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện, đồ dùng gia đình… Bên cạnh đó những nhu cầu chi tiêu cho giáo dục, y tế, du lịch cũng được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng.
1.1.3.3 Tính chất của tín dụng
Dựa vào tiêu thức này tín dụng được chia làm 2 loại :
Tín dụng gián tiếp: Là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Đây là loại tín dụng có mức độ rủi ro lớn vì Ngân hàng không có đầy đủ thông tin về bên đi vay, hơn nữa các doanh nghiệp hầu như không có kinh nghiệm trong việc cấp tín dụng cho khách hàng của mình.
Tín dụng trực tiếp: Là hình thức tín dụng trong đó Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho Ngân hàng. Mức độ rủi ro trong trường hợp này thấp hơn vì Ngân hàng có thể gặp trực tiếp khách hàng và nó được thực hiện bởi những cán bộ có nghiệp vụ và kinh nghiệm trong việc cung cấp tín dụng.
1.1.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng
Trong điều kiện đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, tín dụng nói chung và tín dụng Ngân hàng nói riêng có vai trò hết sức quan trọng.
Tín dụng Ngân hàng phục vụ sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các đơn vị kinh tế nói riêng. Thực hiện chức năng phân phối lại (cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn), tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế dự trữ vật tư, hàng hoá, tăng thêm giá trị TSCĐ, TSLĐ mà đơn vị đã sử dụng, do vậy tín dụng góp phần tăng nhanh tốc độ chu chuyển vật tư, hàng hoá trong nền kinh tế, rút ngắn thời gian lưu thông, giảm bớt chi phí, tạo điều kiện nâng cao lợi nhuận.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần đông nam á chi nhánh Hà Nội - 1
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Tín Dụng Ngắn Hạn
- Tình Hình Mua Bán Ngoại Tệ Của Ngân Hàng Tmcp Đông Nam Á Chi Nhánh Hà Nội
- Dư Nợ Ngắn Hạn Của Sea Bank Chi Nhánh Hà Nội Từ 2010-2012
Xem toàn bộ 73 trang tài liệu này.
Tín dụng Ngân hàng là công cụ để Nhà nước tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc các ngành kinh tế kém phát triển thông qua chính sách ưu đãi, từ đó thúc
4
đẩy các ngành kinh tế cũng phát triển, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ. Trước hết, trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng huy động và tập trung những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, đồng thời khi thu nợ cũng rút khỏi lưu thông một bộ phận tiền tệ. Mặt khác, trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng, Ngân hàng phát hành thêm tiền tệ cho vay phát triển sản xuất, tăng nhanh tốc độ chu chuyển tiền mặt qua Ngân hàng. Sau nữa, để thực hiện mối quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế với nhau, cũng như mối quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức kinh tế thì các tổ chức kinh tế phải mở tài khoản tại Ngân hàng. Việc mở tài khoản tại Ngân hàng tạo khả năng củng cố và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
Đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển kinh tế giữa các nước. Hiện nay sự phát triển của mỗi nước đều gắn với thị trường quốc tế, do đó tín dụng trở thành phương tiện để nối các nước với nhau. Nó có vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hoặc nhờ vốn tín dụng bên ngoài mà phát triển kinh tế trong nước.
Tín dụng Ngân hàng là động lực đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện thành công quá trình này thì cần phải có vốn. Nguồn vốn dùng để tài trợ có thể là vốn vay trong nước hay vay nước ngoài trong đó Ngân hàng chính là trung gian tài chính huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế để cho vay.
1.2. Tín dụng ngắn hạn và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn trong nền kinh tế
1.2.1. Tín dụng ngắn hạn và vai trò của tín dụng ngắn hạn
1.2.1.1 Khái niệm tín dụng ngắn hạn
Theo quyết định 127/2005/QĐ – NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Tín dụng ngắn hạn là khoản cho vay có thời hạn và được sử dụng nhằm đáp ứng cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống. Thời hạn đối với tín dụng ngắn hạn được tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận tối đa là 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
1.2.1.2 Đặc trưng của tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn ngoài mang những đặc trưng của tín dụng Ngân hàng còn có những đặc điểm riêng sau :
5
Tín dụng ngắn hạn là nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại vì thời gian cho vay đến 12 tháng. Chính loại vay này giúp cho Ngân hàng giữ được khả năng thanh toán vì nó tương thích với kết cấu nguồn vốn của Ngân hàng thường là tiền gửi tiết kiệm dưới 12 tháng.
Lãi suất cho vay ngắn hạn thường nhỏ hơn lãi suất cho vay dài hạn vì mức độ rủi ro của tín dụng ngắn hạn thường thấp hơn so với tín dụng trung và dài hạn.
1.2.1.3 Các hình thức tín dụng ngắn hạn của NHTM Một là: Chiết khấu chứng từ có giá
Các chứng từ có giá ở đây có thể là hợp đồng mua bán, các giấy tờ có giá (thương phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc, công trái) hoặc mua bán lại các khoản nợ. Các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu hoặc hàng hoá theo hợp đồng thấy cần vốn cho các hoạt động của họ trong khi chờ nhận tiền theo một hợp đồng họ có thể nhượng lại bản hợp đồng cho Ngân hàng như một vật bảo đảm cho một khoản vay ngắn hạn tại Ngân hàng. Ngân hàng sẽ mua các giấy tờ có giá trị trừ đi phần lợi tức chiết khấu và hoa hồng phí. Đến thời hạn thanh toán của giấy tờ có giá Ngân hàng đòi người mắc nợ theo giá trị của giấy tờ có giá mà Ngân hàng đã thực hiện chiết khấu.
Hai là: Tín dụng ngân quỹ
Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó Ngân hàng cho khách hàng vay để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của khách hàng và được thực hiện chủ yếu bằng 2 hình thức:
Ứng trước trên tài khoản: Là nghiệp vụ tín dụng mà Ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở và ứng cho khách hàng một số tiền nhất định trên tài khoản của khách tại Ngân hàng, trên cơ sở có đảm bảo là loại tín dụng ứng trước được thực hiện trên cơ sở khách hàng có tài sản thế chấp, cầm cố, có sự bảo lãnh. Tín dụng ứng trước có đảm bảo là loại tín dụng ứng trước được thực hiện mà khách hàng không cần thiết phải có tài sản đảm bảo. Loại tín dụng này chỉ được áp dụng với khách hàng có mức độ tín nhiệm cao với Ngân hàng.
Hình thức thấu chi : Là nghiệp vụ tín dụng ngân quỹ mà Ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách cho phép khách hàng sử dụng vượt số tiền mà họ kí thác tại Ngân hàng trên tài khoản vãng lai với số lượng và thời hạn nhất định.
6
Ba là: Tín dụng bằng chữ kí
Là hình thức Ngân hàng đứng ra cam kết với chủ nợ là sẽ thanh toán trong trường hợp khách hàng không trả được nợ khi đến hạn. Ngân hàng đứng ra bảo lãnh và cấp cho khách hàng của mình một chữ kí để họ có thể kéo dài thời gian thanh toán khoản nợ hoặc mua hàng ở nơi khác. Tín dụng bằng chữ kí có hai hình thức:
Tín dụng chấp nhận: Là hình thức tín dụng bằng chữ kí mà Ngân hàng chấp nhận một hối phiếu đòi tiền của chính Ngân hàng. Khi hối phiếu đến hạn, khách hàng giao nộp tiền vào Ngân hàng số tiền cần thiết để thanh toán. Về nguyên tắc Ngân hàng không phải chi vốn mà chỉ cấp cho chủ nợ một chứng từ đòi hỏi thanh toán với khả năng của Ngân hàng.
Tín dụng bảo lãnh: Là hình thức Ngân hàng cam kết sẽ chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được chấp nhận bảo lãnh, thực hiện đúng các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh, được quy định cụ thể tại thư bảo lãnh của Ngân hàng. Mặt khác bên được bảo lãnh có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ những cam kết của mình với bên yêu cầu bảo lãnh cũng như Ngân hàng bảo lãnh.
1.2.1.4 Vai trò của tín dụng ngắn hạn đối với nền kinh tế
Tín dụng ngắn hạn có vai trò to lớn trong nền kinh tế. Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng nghiệp vụ tín dụng giữ vai trò trọng yếu, tác động đến sản xuất kinh doanh và một phần tham gia đầu tư phát triển. Với chức năng chủ yếu là huy động vốn để cho vay, Ngân hàng huy động tiền nhàn rỗi trong dân để cho vay các đối tượng đang thiếu vốn.
Đối với sự phát triển kinh tế xã hội:
Tín dụng ngắn hạn góp phần tác động tích cực đến nhịp độ phát triển kinh tế, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt. Khoản vay của Ngân hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thoả mãn nhu cầu về vốn. Vay vốn cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải gánh trách nhiệm trả nợ, buộc doanh nghiệp phải tích cực hoạt động đảm bảo cạnh tranh để đồng vốn vay được sử dụng có hiệu quả nhất. Lúc này hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ trở nên sôi động và nhộn nhịp. Các doanh nghiệp hoạt động tốt góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Đối với Ngân hàng:
Hiện nay các Ngân hàng thường có cơ cấu nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn, việc mở rộng tín dụng ngắn hạn giúp Ngân hàng cân đối kết cấu nguồn vốn và sử dụng một cách tối ưu. Ngoài ra vòng quay vốn lưu động cao, các
7
khoản tiền sẽ được đưa vào lưu thông nhiều lần do công tác thanh toán của Ngân hàng làm tăng khả năng tạo tiền của Ngân hàng, làm cho nguồn lực nền kinh tế được sử dụng hiệu quả và đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Thông qua hoạt động tín dụng các Ngân hàng thương mại cũng là biện pháp thu hút khách hàng, mở rộng quy mô và củng cố chất lượng tín dụng của mình, tăng khả năng cạnh tranh của mỗi Ngân hàng.
Đối với các doanh nghiệp:
Các khoản tín dụng có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp doanh nghiệp tận dụng được thời cơ, phát triển được sản xuất. Tín dụng ngắn hạn giúp cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong một thời điểm nào đó mặc dù không đủ vốn. Để đảm bảo trả được nợ gốc và lãi vay cho ngân hàng buộc các doanh nghiệp phải làm ăn có uy tín, giúp các doanh nghiệp đi đúng hướng đã chọn và đạt được những mục tiêu lợi nhuận cao nhất.
1.2.2. Chất lượng tín dụng, các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng
1.2.2.1 Khái niệm chất lượng tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng
Trong cuộc sống hàng ngày ta thường nghe nói đến những cụm từ như: chất lượng hàng hóa, chất lượng sản phẩm, còn chất lượng tín dụng thì ít khi được nhắc đến. Vậy chất lượng tín dụng là gì và nó có vai trò như thế nào đối với ngân hàng?
Trước khi hiểu chất lượng tín dụng là gì chúng ta cần hiểu rõ khái niệm về chất lượng. Theo tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS 9000:2000, đã đưa ra định nghĩa về chất lượng như sau: “Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan".
Chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối, một phạm trù rộng lớn, nó vừa cụ thể vừa mang tính tổng hợp. Vì vậy, không có định nghĩa chính xác về chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng có thể được hiểu: là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của Ngân hàng. Nâng cao chất lượng trong hoạt động là yếu tố quan trọng để một đơn vị kinh doanh đứng vững trên thị trường, đặc biệt là trong nền kinh tế cạnh trạnh. Đối với Ngân hàng, hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời thiết yếu, song cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro. Chính vì vậy đây là điều mà các Ngân hàng thương mại quan tâm đến nhiều nhất. Xét về tổng thể, Ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế, vừa tạo ra được hiệu quả xã hội. Chất lượng tín dụng được thể hiện:
Đối với doanh nghiệp
8
Đối với doanh nghiệp, chất lượng tín dụng ngắn hạn thể hiện các khoản vay được đáp ứng nhu cầu để đảm bảo quá trình luân chuyển vốn trong quá trình kinh doanh, nâng cao chất lượng, hiện đại hoá và đa dạng hoá sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Những khoản tín dụng này làm tăng quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận, thu nhập của công nhân, thu hút nhiều lao động kĩ thuật, đảm bảo việc làm thường xuyên và ổn định, tăng trưởng tốc độ nhanh. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ là căn cứ để đánh giá chất lượng tín dụng. Có thể nói đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của doanh nghiệp là cách đánh giá có hiệu quả nhất vì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của Ngân hàng và nền kinh tế.
Đối với các Ngân hàng thương mại
Các khoản tín dụng đó phải phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng trong từng thời kì. Mỗi thời kì, trong giai đoạn khác nhau, mục tiêu của Ngân hàng cũng khác nhau. Nếu khoản tín dụng không đáp ứng được mục tiêu của Ngân hàng thì chất lượng tín dụng đó không được đảm bảo dù nó đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng thực lực theo hướng tích cực của bản thân Ngân hàng và phải đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Các khoản tín dụng phải đảm bảo thực hiện đúng quy trình tín dụng. Khi ngân hàng cho vay phải thực hiện theo pháp lệnh Ngân hàng và các văn bản chế độ hiện hành của ngành.
Đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Một khoản tín dụng có chất lượng cao phải kết hợp được hài hoà lợi ích của khách hàng, Ngân hàng và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, ngoài việc đánh giá dưới góc độ Ngân hàng và khách hàng, chất lượng tín dụng ngắn hạn còn được đánh giá dưới góc độ kinh tế xã hội thông qua các chỉ tiêu sau:
Giải quyết vấn đề lao động: Tỷ lệ thất nghiệp luôn là mối quan tâm hàng đầu của bất kì một quốc gia nào. Khi tỷ lệ này tăng thì đời sống của người dân sẽ gặp khó khăn, tệ nạn xã hội gia tăng. Vì vậy với những khoản cho vay dự án nào giải quyết được vấn đề thất nghiệp thì được coi là có hiệu quả, có chất lượng về mặt kinh tế xã hội.
9
Khả năng khai thác tiềm năng trên địa bàn hoạt động: Một dự án khai thác được tiềm năng trên địa bàn hoạt động (tài nguyên, con người) thì sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế của địa bàn phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách.
Giải quyết vấn đề môi trường: Nếu dự án gây ô nhiễm môi trường sống xung quanh ảnh hưởng tới sức khoẻ của người lao động, năng suất lao động sẽ giảm sút, ảnh hưởng xấu tới đời sống xã hội và như vậy dự án không mang lại hiệu quả cho nền kinh tế xã hội.
Chất lượng tín dụng còn thể hiện ở tính an toàn cao của hệ thống Ngân hàng. Tín dụng ngắn hạn đảm bảo được chất lượng tín dụng thì khả năng thanh toán chi trả sẽ cao, tránh được rủi ro, tín dụng ngắn hạn không ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Nói tóm lại, việc đánh giá chất lượng tín dụng có ý nghĩa quan trọng vì nó là cơ sở để tìm ra các giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng ngắn hạn nói riêng.
1.2.2.2 Đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn
Quy trình cho vay ngắn hạn
Quy trình cho vay ngắn hạn là trình tự các bước mà ngân hàng thực hiện cho vay ngắn hạn đối với khách hàng. Quy trình cho vay ngắn hạn phản ánh nguyên tắc cho vay, phương pháp cho vay, trình tự giải quyết các công việc, thủ tục hành chính và thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng.
Sơ đồ 1.1 Quy trình cho vay chung tại các Ngân hàng
Thiết lập hồ sơ cho vay
Phân tích cho vay
Quyết định cho vay
Giám sát và quản lý cho vay
(Nguồn: Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại)
Bước 1: Thiết lập hồ sơ cho vay:
Hồ sơ cho vay của một ngân hàng là tài liệu bằng văn bản biểu hiện mối quan hệ tổng thể của ngân hàng với khách hàng vay vốn. Chất lượng cho vay phụ thuộc rất nhiều lớn vào sự hoàn chỉnh và chính xác của hồ sơ cho vay. Vì vậy khi thiết lập một hồ sơ cho vay phải đảm bảo đầy đủ các yếu tố:
Các thông tin cơ bản về khách hàng xin vay;
Thông tin về tài chính hiện tại của khách hàng xin vay;
10
Lịch sử tài chính của khách hàng xin vay; Thông tin về mục đích vay vốn;
Phương hướng hoạt động kinh doanh trong tương lai của khách hàng; Đánh giá nhận xét của ngân hàng về khách hàng;
Thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng về việc vay vốn và trả nợ; Những thông báo của ngân hàng cho khách hàng;
Báo cáo về kết quả kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay.
Tùy vào từng loại cho vay, kỹ thuật cho vay và quy mô của các khoản cho vay mà ngân hàng quy định việc thiết lập hồ sơ cho phù hợp. Bộ hồ sơ cho vay thường bao gồm các loại sau:
Một là, hồ sơ do khách hàng lập và cung cấp cho ngân hàng. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi đến ngân hàng các giấy tờ sau:
Hồ sơ pháp lý là hồ sơ chứng minh cho ngân hàng biết về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của khách hàng, bao gồm: quyết định hoặc giấy phép thành lập doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, giấy phép hành nghề, giấy phép đầu tư, biên bản góp vốn, danh sách thành viên sáng lập (nếu là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn), giấy chứng nhận vốn đầu tư ban đầu (nếu là doanh nghiệp tư nhân)…
Hồ sơ kinh tế bao gồm: kế hoạch sản xuất kinh doanh trong kỳ, báo cáo tài chính của công ty…
Hồ sơ vay vốn cho mỗi lần vay: giấy đề nghị vay vốn, hồ sơ đảm bảo tiền vay như (giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản, giấy tờ chứng minh năng lực pháp lý, năng lực tài chính của người bảo lãnh…)
Hai là hồ sơ do ngân hàng lập gồm:
Các báo cáo về thẩm định, tái thẩm định.
Các loại thông báo như: thông báo từ chối cho vay, thông báo cho vay, thông báo gia hạn nợ, thông báo đến hạn nợ, thông báo quá hạn nợ, thông báo tạm ngừng cho vay, thông báo chấm dứt cho vay…
Báo cáo kiểm tra sử dụng vốn vay, báo cáo phân tích tình hình tài chính. Sổ theo dõi cho vay và thu nợ.
11
Ba là hồ sơ do ngân hàng và khách hàng cùng lập: Hợp đồng tín dụng hoặc sổ vay vốn.
Hợp đồng đảm bảo tiền vay như hợp đồng cầm cố thế chấp tài sản, hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng…
Bước 2: Phân tích cho vay:
Để phòng ngừa, hạn chế rủi ro các Ngân hàng thương mại đã áp dụng nhiều biện pháp, đó là biện pháp cơ bản, có vị trí quan trọng nhất là phân tích đánh giá một cách toàn diện khách hàng trước khi cho vay. Các ngân hàng cần phân tích đánh giá khách hàng:
Năng lực pháp lý của khách hàng; Uy tín của khách hàng;
Phân tích tình hình tài chính của khách hàng;
Đánh giá về năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo đơn vị khách hàng;
Thẩm định dự án đề nghị vay vốn; Thẩm định đảm bảo nợ vay;
Bước 3: Quyết định cho vay:
Kết quả của quá trình phân tích tín dụng là đưa ra quyết định cho vay. Đối với khoản vay nhỏ, ngân hàng thường giao cho cán bộ tín dụng quyết định. Đối với những khoản vay lớn thuộc thẩm quyền quyết định của hội đồng tín dụng. Trường hợp này cán bộ tín dụng trực tiếp nhận hồ sơ vay vốn có trách nhiệm kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ và thẩm định các điều kiện vay vốn của hồ sơ, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu và phải đưa ra được ý kiến có nên cho vay hay không cho vay và lập tờ trình hội đồng tín dụng. Trên cơ sở hồ sơ vay vốn và tờ trình của nhân viên tín dụng, hội đồng tín dụng xem xét kiểm tra lại hồ sơ vay vốn và tờ trình để ra quyết định cho vay hay không cho vay. Dù quyết định cho vay của nhân viên tín dụng hay hội đồng tín dụng cũng phải đưa ra trong thời gian ngắn nhất, đảm bảo tính kịp thời cho khách hàng.
Bước 4: Kiểm tra, giám sát và xử lý vốn vay:
Giám sát và quản lý tín dụng được tiến hành từ khi tiền vay phát ra cho đến khi khoản vay được hoàn trả. Nội dung kiểm tra gồm:
12
Kiểm tra trước khi cho vay. Kiểm tra trong khi cho vay. Kiểm tra sau khi cho vay.
Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn
Nền kinh tế thị trường đặt ra vấn đề cho các nhà sản xuất kinh doanh là phải đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, có như vậy mới tồn tại và phát triển ổn định. Vì vậy, đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là một yêu cầu khách quan đối với các doanh nghiệp. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, vì vậy việc nâng cao chất lượng trong hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng là việc làm cần thiết. Để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trước hết cần tiến hành đánh giá các nhóm chỉ tiêu. Để hiểu được các nhóm chỉ tiêu này cần hiểu được một số khái niệm sau:
Doanh số cho vay: Phản ánh lượng vốn ngân hàng cho doanh nghiệp vay theo hợp đồng tín dụng, nó được tính bằng cách cộng tất cả các khoản cho vay trong một thời gian nhất định. Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng, nếu quy mô lớn và ngày càng mở rộng chứng tỏ hoạt động tín dụng càng tốt.
Doanh số thu nợ: Phản ánh vốn thực tế người đi vay hoàn trả cho Ngân hàng, nó được tính bằng cách cộng tất cả các khoản thu nợ trong một thời kì nhất định. Doanh số thu nợ càng lớn và tăng so với tổng số cho vay chứng tỏ tín dụng của Ngân hàng ngày càng tốt.
Dư nợ: Phản ánh lượng vốn mà cá nhân, tổ chức vay còn nợ Ngân hàng tại một thời điểm cụ thể, được tính bằng số dư cuối kì trên bảng cân đối kế toán. Dư nợ càng lớn phản ánh khả năng mở rộng tín dụng của Ngân hàng càng lớn, dư nợ thấp chứng tỏ khả năng tín dụng của Ngân hàng không được mở rộng, kém chất lượng.
Sau đây là một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
Một là: Chỉ tiêu về huy động vốn ngắn hạn
Tỷ trọng vốn huy động ngắn hạn =
Vốn huy động ngắn hạn Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này cho biết trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thì vốn ngắn hạn huy động được bao nhiêu, đồng thời cho biết khả năng huy động vốn ngắn hạn của Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao thì Ngân hàng càng có cơ hội mở rộng đầu tư cho vay
13
ngắn hạn, nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, chỉ tiêu này cao cũng đồng nghĩa với việc chi phí tạo nguồn vốn lớn, nếu Ngân hàng không sử dụng tốt nguồn vốn này thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của Ngân hàng.
Hai là: Khả năng cấp tín dụng
Khả năng cấp tín dụng =
Vốn huy động ngắn hạn Dư nợ tín dụng ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết vốn huy động ngắn hạn đảm bảo bao nhiêu phần trăm nhu cầu tín dụng ngắn hạn, từ đó cho thấy khả năng tự chủ của Ngân hàng trong việc cấp tín dụng cho nền kinh tế. Ngoài ra, chỉ tiêu này còn ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của Ngân hàng. Tỷ lệ này cao chứng tỏ Ngân hàng cho vay ngắn hạn nhiều và đã sử dụng tốt nguồn vốn huy động ngắn hạn. Nếu tỷ lệ này thấp kết hợp với khả năng huy động vốn ngắn hạn cao thì có thể kết luận Ngân hàng đã sử dụng vốn lãng phí, không hiệu quả, ảnh hưởng tới lợi nhuận và an toàn trong hoạt động Ngân hàng.
Ba là: Chỉ tiêu cho vay ngắn hạn
Chỉ tiêu dư nợ ngắn hạn:
Tỷ lệ dư nợ ngắn hạn =
Dư nợ ngắn hạn Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ dư nợ ngắn hạn trong tổng dư nợ tín dụng của Ngân hàng. Nếu tỷ lệ dư nợ tăng liên tục qua nhiều thời kỳ có thể nói chất lượng tín dụng tăng. Tuy nhiên khi đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn qua chỉ tiêu này cần phải xem xét cả số tương đối và số tuyệt đối. Bởi không phải tỷ lệ này tăng có nghĩa là cho vay ngắn hạn tăng, nó còn phụ thuộc vào việc tổng dư nợ tín dụng có tăng hay không.
Chỉ tiêu nợ quá hạn
Theo quyết định 493/NHNN thì nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn mà khách hàng không trả được số tiền trong hợp đồng tín dụng và tiền lãi của số tiền đó và không được ngân hàng gia hạn. Số tiền này ngân hàng chuyển thành nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn đối với những khoản nợ này (cao hơn lãi suất thông thường). Đây là những khoản những khoản nợ có độ rủi ro cao và ngân hàng có khả mất vốn. Các ngân hàng luôn mong muốn giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn bởi nó làm giảm lợi nhuận của ngân hàng do phải trích dự phòng rủi ro tương ứng với thời gian quá hạn. Để đánh
14
giá chất lượng tín dụng trên cơ sở nợ quá hạn, người ta người ta thường thông qua tỷ lệ nợ quá hạn cho vay ngắn hạn gồm:
Tỷ lệ nợ quá hạn
cho vay ngắn hạn =
Tổng dư nợ quá hạn ngắn hạn Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn
x 100%
Tỷ lệ nợ xấu cho vay ngắn hạn =
Tổng dư nợ xấu ngắn hạn Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn
x 100%
Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng tín dụng ngắn hạn. Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không trả được nợ hoặc không trả được lãi một kỳ và không được gia hạn nợ thì Ngân hàng sẽ chuyển khoản vay đó sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn là điều mà các Ngân hàng không hề mong muốn và cũng tìm mọi biện pháp để hạ tỷ lệ nợ quá hạn tới mức thấp nhất có thể được. Cũng như chỉ tiêu dư nợ tín dụng ngắn hạn, cần đánh giá chỉ tiêu này cả về mặt tương đối và tuyệt đối thì mới có thể kết luận chính xác về chất lượng tín dụng ngắn hạn. Nếu nợ quá hạn tăng nhưng tỷ lệ này vẫn không tăng thì có thể kết luận chất lượng tín dụng vẫn được đảm bảo.
Chỉ tiêu nợ không có khả năng thu hồi:
Cũng theo quyết định 493/NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng thì nợ xấu được định nghĩa là nợ thuộc nhóm 3, 4, 5 quy định tại điều 6 và 7 của quy định này.
Các khoản nợ của Ngân hàng thương mại được chia thành 5 loại chủ yếu sau:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao.
15