Giải pháp cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước lào - 2


trung gian; vai trò thanh toán; vai trò người bảo lãnh; vai trò đại lý; vai trò thực hiện chính sách tiền tệ.

Ngày nay, khi nền KTTT đang phát triển mạnh mẽ, quan hệ đa sở

hữu ngày càng trở nên phổ

biến thì sở

hữu nhà nước đối với các NHTM

đang giảm xuống rõ rệt, nhất là trong vòng 10 năm trở lại đây. Chính vì

thế, tại các nước có nền kinh tế

phát triển, tỷ lệ

vốn sở

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.

hữu nhà nước

trong các NHTM rất nhỏ, chỉ khoảng dưới 10% tổng số tài sản ngân hàng.

Giải pháp cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước lào - 2

Nguyên nhân là trong những năm qua Chính phủ các nước đã tích cực

chuyển đổi hình thức sở hữu, từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác. Ngược lại, tại các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế quá độ sang KTTT, tỷ lệ sở hữu nhà nước trong các NHTMNN vẫn cao, như tại Ấn Độ là 80% tổng giá trị tài sản ngân hàng, tại Nga là 68% tổng giá trị tài sản ngân hàng, tại Ai Cập là 67% tổng giá trị tài sản ngân hàng...

Tuy số lượng các NHTMNN trên thế giới đã giảm đi đáng kể nhưng suốt trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, lịch sử đã chứng minh NHTMNN đã và vẫn giữ vai trò chủ đạo, thực sự quan trọng đối với nền kinh tế. Ngoài những vai trò của một NHTM thông thường thì NHTMNN thể hiện vai trò đặc biệt, riêng có, ưu việt hơn các NHTM thuộc các thành phần kinh tế khác, thể hiện ở một số nội dung sau:

Một là, NHTMNN cung

ứng một lượng vốn đầu tư

lớn cho nền

kinh tế để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước.

Do có quy mô hoạt động lớn cả về huy động vốn và cho vay vốn,

NHTMNN có khả năng đáp ứng đủ một lượng vốn đầu tư lớn và dài hạn

cho các dự án trọng điểm của các doanh nghiệp và Chính phủ, góp phần

đảm bảo chiến lược phát triển lâu dài cho toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa,


sự tài trợ của NHTMNN vào các dự án này sẽ đẩy mạnh hơn được tốc độ thực hiện, tiết kiệm được chi phí về vốn và thời gian đầu tư so với sự tài trợ của các thành phần kinh tế khác.

Hai là, NHTMNN cung

ứng vốn đầu tư

cho các dự

án thuộc các

vùng, lĩnh vực nhiều rủi ro, ít lợi nhuận nhưng lại có lợi về lâu dài cho tăng trưởng ổn định, phát triển đồng đều nền kinh tế mà các NHTM thuộc các thành phần kinh tế khác không đủ sức hoặc không muốn tài trợ.

Chính sách phát triển kinh tế của đất nước là phát triển cân đối giữa các vùng, các ngành sản xuất. Tuy nhiên giữa các vùng, ngành luôn có sự khác biệt nhất định. Ở một số vùng, ngành có khả năng tạo ra lợi nhuận lớn và ít rủi ro sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Ngược lại, một số vùng, ngành khác có mức thu lợi nhuận thấp và rủi ro cao lại không thu hút được vốn đầu tư. Chính sự khác biệt này có nguy cơ làm mất cân đối nền kinh tế, mất cân đối giữa các vùng, ngành và

không đạt được mục tiêu phát triển của Chính phủ. Để khắc phục tình

trạng này, dưới sự điều tiết của Chính phủ, NHTMNN được xem là nguồn

cung

ứng vốn quan trọng cho những dự

án thực hiện đầu tư

vào những

vùng, ngành không đem lại lợi nhuận cao và nhiều rủi ro. Nhờ có lượng vốn

đầu tư từ NHTMNN, các vùng, ngành này sẽ có điều kiện phát triển, thu

hẹp khoảng cách với các vùng, ngành khác, từ đó làm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định và đồng đều.

Ba là, NHTMNN góp phần thực hiện các chương trình, chính sách phát triển KT­XH của Chính phủ, đảm bảo tài chính tài trợ cho những khu vực không có hoặc có lợi nhuận thấp nhưng có phúc lợi xã hội cao.

Ngoài các chương trình phát triển kinh tế, Chính phủ còn phải thực hiện nhiều chương trình, chính sách phát triển khác về con người, xã hội. Vì


vậy, NHTMNN còn đóng góp quan trọng trong việc chuyển tải vốn nhằm

thực hiện các chương trình, chính sách phát triển kinh tế xã hội của nhà

nước như: khắc phục thiên tai, lũ lụt, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm ở

đô thị...

Bn là, NHTMNN tạo môi trường quan trọng để hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Nhà nước thực

Việc hoạch định chính sách tiền tệ

thuộc về

Ngân hàng Trung

ương. Để

thực thi chính sách tiền tệ

phải sử

dụng các công cụ

như: lãi

suất, dự trữ bắt buộc, thị trường mở... Các NHTMNN là chủ thể chịu tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời NHTMNN đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.

So với các NHTM khác thì NHTMNN có quy mô hoạt động lớn hơn nhiều về tất cả các mặt: thị phần, số vốn huy động, số vốn đầu tư cho nền

kinh tế... nên NHTMNN chính là ngân hàng chủ yếu trong việc thực thi

chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương, quyết định đến kết quả thực hiện và mức độ tác động đến nền kinh tế.

1.1.3. Xu hướng vận động của ngân hàng thương mại nhà nước trong nền kinh tế thị trường‌

Trong gần hai thập kỷ nay, nền kinh tế các nước đã có nhiều thay

đổi. Từ một nền kinh tế đóng đang dần chuyển sang nền kinh tế mở, hình thành nên một môi trường kinh doanh tự do và toàn cầu. Có thể nói đây là một xu thế tất yếu mà không có một quốc gia nào muốn phát triển lại tự

đặt mình ra ngoài quy luật

ấy. Trong điều kiện mở

cửa thị

trường, hội

nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nói chung và các NHTMNN nói

riêng phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt, không chỉ cạnh tranh ở phạm


vi ngoài nước mà cạnh tranh ngay cả thị trường trong nước. Vì thế, trong những năm gần đây, các NHTMNN có xu hướng chung là thực hiện những chiến lược cải cách, cải tổ sâu rộng để nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập với kinh tế quốc tế, tăng vốn chủ sở hữu, giải quyết nợ tồn đọng, tăng khả năng sinh lời, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, xây dựng và áp dụng nhiều công nghệ, dịch vụ ngân hàng hiện đại... Nhằm khắc phục

những hạn chế

trong hoạt động kinh doanh do cơ

chế

bao cấp của Nhà

nước, do môi trường kinh doanh khép kín đem lại, do sự độc quyền sở hữu nhà nước đối với NHTMNN đem lại thì đòi hỏi phải cải tổ lại NHTMNN mà trước hết là phải đa dạng hóa hình thức sở hữu trong NHTMNN.

Các chiến lược đó là sáp nhập để tăng quy mô, đa dạng hóa sở hữu, điển hình như một số cuộc sáp nhập ở Đài Loan giữa Ngân hàng hợp tác Đài Loan và NHTM Chingfong bank và tiếp đến là vụ sáp nhập tay ba giữa First Commerrcial Bank, Pan Asia bank và Dah An Commercial bank. Các

thương vụ sáp nhập ở Đài Loan thường diễn ra giữa một ngân hàng của

Nhà nước với một ngân hàng yếu kém hơn. Còn ở Đức, sự sáp nhập của NHTM Dresdner và tập đoàn bảo hiểm Allanz đã tạo thành một liên minh tài chính hỗn hợp nhằm củng cố địa vị tài chính và đặc biệt là tận dụng tối đa lợi thế các bên.

Thực hiện chiến lược đa dạng hóa sở

hữu, từ sở

hữu Nhà nước

sang sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác [93, tr.3], chỉ tính trong vòng 25 năm (1988 – 2005) đã có 250 NHTMNN ở 59 quốc gia trên thế giới tiến hành CPH và tư nhân hóa [93, tr.30­41].

Như vậy, xu hướng chung của các NHTMNN trong nền KTTT là đa dạng hóa sở hữu, chuyển từ sở hữu duy nhất là Nhà nước sang loại hình doanh nghiệp cổ phần đa sở hữu.


1.2. CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC‌

1.2.1. Khái niệm về Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước‌

Trong những năm gần đây, thuật ngữ "cổ phần hóa DNNN" và "tư nhân hóa DNNN" được nhắc đến khá thường xuyên, nhất là ở những nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền KTTT. Vậy "Cổ phần hóa

DNNN", "tư

nhân hóa DNNN" là gì? Để

hiểu một cách đầy đủ

các khái

niệm này, chúng ta hãy tiếp cận từ một số nội dung liên quan đến doanh nghiệp trong nền KTTT.

Doanh nghiệp có thể được hiểu là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp

luật nhằm mục đích thực hiện ổn định các hoạt động kinh doanh. Theo

Luật doanh nghiệpnăm 2005 của Laò , doanh nghiệp trong nền KTTT được chia thành ba loại sau:

­ Doanh nghiệp sở

hữu tư

nhân là doanh nghiệp do một hay một

nhóm tư nhân nắm quyền sở hữu. Loại doanh nghiệp này bao gồm: Công ty

trách nhiệm hữu hạn tư nhất)...

nhân, doanh nghiệp tư

nhân (1 chủ

sở hữu duy

­ Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu thuộc sở hữu

của nhiều cổ đông, các cổ đông có thể là tổ chế số lượng tối đa.

chức, cá nhân và không hạn

­ Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn chủ sở hữu hoặc có cổ phần vốn góp chi phối [70, Điều 10].

Sự ra đời và phát triển của các DNNN ở mỗi nước trên thế giới đều

do những nguyên nhân kinh tế xã hội khách quan chi phối, vai trò của

DNNN ở mỗi nước cũng khác nhau. Tuy vậy, trong những giai đoạn lịch sử nhất định, ở những lĩnh vực nhất định. DNNN luôn là một bộ phận quan


trọng trong cơ

cấu của nền kinh tế

mỗi nước. Tuy nhiên, cho đến thời

điểm khi mà bối cảnh kinh tế

trong nước và thế

giới thay đổi, DNNN

không còn phát huy được vai trò vốn có của mình và bắt đầu bộc lộ những

hạn chế. Nguyên nhân chính là do tính chất sở hữu độc quyền của Nhà

nước không còn phù hợp với nền KTTT tự do. Chính vì thế, trong những năm qua, các nước đang tìm các giải pháp để cải cách DNNN, nhất là cải cách vai trò sở hữu của Nhà nước mà "Cổ phần hóa " và "Tư nhân hóa" là giải pháp được quan tâm nhiều nhất.

Cổ phần hóa DNNN là quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ

phần, tức là chuyển một doanh nghiệp sở hữu nhà nước thành một doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu bao gồm các pháp nhân, thể nhân thuộc nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, đơn vị, cá nhân, kể cả người lao động trong doanh nghiệp.

Mục tiêu cơ bản của cổ phần hóa DNNN là góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu đồng thời thu hút được vốn của toàn xã hội; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà

nước, doanh nghiệp, người lao động và nhà đầu tư. Có thể

nói, cổ

phần

hóa DNNN là con đẻ của nền KTTT và đã được hầu hết các nước áp dụng, đem lại nhiều thành công lớn trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. cổ phần hóa là lối ra phù hợp với khu vực kinh tế nhà nước đang ở trong tình trạng thiếu vốn, nợ triền miên, quản lý yếu kém, công nghệ lạc hậu....

Như vậy, cổ phần hóa có phải là tư nhân hóa? Cổ phần hóa có tất yếu dẫn đến tư nhân hóa hay không?


Các nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn đã chứng minh cổ phần hóa không hoàn toàn đồng nhất với tư nhân hóa và không tất yếu dẫn đến tư nhân hóa. Công ty cổ phần là sản xuất tư nhân nhưng không có sự kiểm soát của quyền sở hữu tư nhân. Những tư liệu sản xuất dưới hình

thức công ty cổ

phần sẽ

không còn là tư

liệu của nền sản xuất tư

nhân

nữa, mà chỉ có thể là tư liệu sản xuất trong tay những người sản xuất liên hiệp. Còn theo quan điểm hiện nay, tư nhân hóa là quá trình chuyển đổi tư

liệu sản xuất (quyền sở

hữu) nhà Nhà nước sang cho tư

nhân. Khi đó,

quyền sở hữu cũng như quyền điều hành quản lý của Nhà nước hoàn toàn

bị xóa bỏ, doanh nghiệp từ

hình thức là DNNN thì nay trở

thành doanh

nghiệp tư nhân. Trong khi đó, cổ phần hóa không xóa bỏ hoàn toàn quyền sở hữu của Nhà nước mà chỉ làm cho sở hữu trở nên đa dạng hơn trên cơ sở làm giảm mức độ sở hữu của Nhà nước đối với DNNN được cổ phần

hóa, một phần quyền sở

hữu có thể

chuyển cho các thành phần kinh tế

khác như: các tổ chức, cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp... Cổ phần hóa chỉ có thể trở thành tư nhân hóa hoàn toàn khi toàn bộ cổ phần của doanh

nghiệp được chuyển trọn vẹn vào tay một hoặc một nhóm nhỏ tư nhân.

Như vậy, cổ phần hóa chỉ dẫn đến đa dạng hóa quyền sở hữu đối với tài sản của doanh nghiệp nhưng không đồng nhất và tất yếu dẫn đến chuyển vào tay tư nhân quyền này như kết quả của quá trình tư nhân hóa.

NHTMNN là một loại hình của DNNN, vì vậy, cổ phần hóa NHTMNN là tiến trình chuyển NHTMNN thành ngân hàng cổ phần, tức là chuyển một NHTM sở hữu Nhà nước thành một NHTM có nhiều chủ sở hữu bao gồm các pháp nhân, thể nhân thuộc nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, cá nhân.


1.2.2. Mục tiêu về Cổ phần hóa Ngân hàng thương mại nhà nước‌

Cổ phần hóa NHTMNN là việc biến NHTMNN có một chủ sở hữu

là Nhà nước thành NHTM có nhiều chủ sở

hữu với nhiều cổ

đông khác

nhau thông qua quá trình chào bán các cổ phần chứng nhận quyền sở hữu NHTM cho các cổ đông. Hay nói một cách khác, thông qua tiến trình thực hiện cổ phần hóa NHTMNN mà NHTMNN trước đây thuộc sở hữu 100% của Nhà nước thì nay được chuyển sang một loại hình NHTM cổ phần có nhiều chủ sở hữu, trong đó Nhà nước có thể chỉ là một cổ đông. Cổ phần hóa NHTMNN phải đạt được các mục tiêu sau:

Mt là, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thích ứng với nền KTTT.Cổ phần hóa là con đường tất yếu trong công cuộc xây dựng hệ thống NHTM với mục tiêu đảm bảo tính an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống NH, góp phần tạo ra các NHTM hoặc các tập đoàn tài chính có quy mô lớn, hoạt động đa năng, hiện đại, có sức cạnh tranh cao, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Hai là, tăng cường tiềm lực tài chính và phát triển kinh doanh ổn

định, bền vững. Trong tình hình Ngân sách Nhà nước hạn chế, thì việc cổ phần hóa giúp NHTMNN gia tăng về quy mô và tính đa dạng của các nguồn

vốn quốc tế tham gia vào thị trường tài chính trong nước, góp phần phát

triển thị trường tài chính cả về chiều rộng và chiều sâu, tăng cường kỷ luật thị trường.

Ba là, đổi mới công nghệ, quản lý theo chuẩn mực quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh. Việc mở cửa khu vực ngân hàng và thực hiện các cam kết quốc tế sẽ tạo ra các thử thách trực tiếp cho các NHTMNN. Đòi hỏi các NHTMNN cải thiện hơn nữa hệ thống của mình và nâng cao năng


lực đo lường và quản lý rủi ro một cách có hiệu quả, và đồng thời giảm chi phí hoạt động để nâng cao sức cạnh tranh. Chuyển đổi những NHTMNN sang loại hình ngân hàng có nhiều chủ sở hữu nhằm huy động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước là để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Bn là, tăng cường hội nhập quốc tế: Hội nhập quốc tế là xu

hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết để

phát triển kinh tế

quốc gia đi vào quỹ

đạo chung của thế

giới thông qua

việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh hội nhập ngân hàng sẽ buộc các ngân hàng phải hoạt động theo

nguyên tắc thị

trường và minh bạch hơn, mở

ra cơ

hội trao đổi, hợp tác

quốc tế, tiếp cận và chuyên môn hoá các

nghiệp vụ

ngân hàng hiện đại,

nâng cao uy tín và vị quốc tế.

thế

của hệ

thống NHTMNNLào trong các giao dịch

1.2.3. Điều kiện cần và đủ để cổ phần hóa Ngân hàng Thương mại Nhà nước‌

Cổ phần hóa NHTMNN là nhằm tăng vốn chủ sở hữu, đảm bảo tỷ lệ

an toàn vốn tối thiểu theo thông lệ quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế, đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa hệ thống ngân hàng. Do vậy, khi thực hiện cổ phần hóa NHTMNN phải bảo đảm những điều kiện cần và đủ như sau đây.

1.2.3.1. Về điều kiện cần

Một là, về

mức vốn giữ

vai trò chi phối của Nhà nước trong

NHTMNN được cổ phần hóa .


Ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hóa tuy hình thức

chủ sở hữu có sự thay đổi nhưng vai trò chủ đạo trong việc triển khai thực hiện chính sách tiền tệ vẫn không thay đổi mà vẫn tiếp tục phát huy dưới hình thức mới được điều hành bởi một Hội đồng quản trị theo cơ chế quản

lý phù hợp. Vì vậy, nhất thiết NHTMNN được

cổ phần hóa

thì vốn nhà

nước tham gia phải nắm vai trò chi phối với tỷ lệ tối thiểu 51%.

Hai là, về quy mô vốn chủ.

Ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hóa phải đạt quy

mô vốn ít nhất phải tương xứng với một NHTM trung bình trên thế giới. Số vốn chủ sở hữu của NHTMNN sau cổ phần hóa phải đạt 8.000 tỷ LAK

trở

lên (tương đương 512 triệu USD) trong đó, vốn chủ

sở hữu của Nhà

nước đạt tối thiểu 4.080 tỷ LAK, phần còn lại gọi vốn từ cổ đông trong và ngoài nước.

Ba là, về góp vốn của cổ đông nước ngoài.

Tỷ lệ tham gia của các cổ đông nước ngoài không quá 30% vốn chủ sở hữu. Trong đó, nên tập trung ưu đãi cho các cổ đông nước ngoài là các ngân hàng nước ngoài với tỷ lệ góp vốn tối đa không quá 20% vốn chủ sở hữu.

Bn là, về vai trò chủ NHTMNN được cổ phần hóa .

đạo trong thực hiện chính sách tiền tệ của

Việc cổ

phần hóa NHTMNN phải bảo đảm

ổn định được hoạt

động tiền tệ ­ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế. Hơn

nữa, NHTMNN sau khi được cổ

phần hóa phải trở

thành một ngân hàng

cùng với hệ thống NHTMNN là lực lượng nòng cốt trong lĩnh vực ngân

hàng thực hiện tốt chính sách tiền tệ của NHNN.

Năm là, về tình hình tài chính


Xây dựng một NHTMNN sau cổ phần hóa đủ thực lực tài chính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Muốn thực hiện được điều này, cần xác định

chính xác giá trị

thực tế

của NHTMNN được cổ

phần hóa. Trước hết

NHTMNN được cổ phần hóa phải xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng.


hóa.

Sáu là, xác định chiến lược kinh doanh NHTMNN được

cổ phần

Ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hóa phải xây dựng chiến lược kinh doanh mới theo thông lệ quốc tế và là một ngân hàng đa năng với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. NHTMNN sau khi cổ phần hóa phải đảm bảo hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế.

1.2.3.2. Về điều kiện đủ

Mt là, về cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động.

Trước khi thực hiện cổ phần hóa thì NHTMNN bị điều chỉnh bởi

luật các TCTD và luật doanh nghiệp. Sau khi cổ phần hóa thì NHTMNN có

yếu tố

vốn đầu tư

nước ngoài nên bị

điều chỉnh thêm bởi Luật đầu tư

nước ngoài. Do đó, thiết lập cơ sở pháp lý phù hợp cho việc cổ phần hóa

NHTMNN là cần thiết.

Hai là, về cơ chế quản trị ngân hàng.

Ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hóa phải xây dựng

được cơ chế

quản lý của Hội đồng quản trị

theo hướng nâng cao quyền

lực và quy định một số quyền hạn nhất định của các cổ đông nước ngoài

trong việc tham gia các quyết sách hoạt động của NHTMNN sau cổ phần

hóa. Đồng thời, NHTMNN được cổ phần hóa còn phải xây dựng được các chuẩn mực quốc tế về quy trình nghiệp vụ quản trị rủi ro, quản lý tín dụng


hiện đại, quản lý tài sản nợ ­ có, quản lý đầu tư, quy trình kiểm toán nội bộ...

Ba là, xác định giá trị thực tế ngân hàng

Đây là điều kiện cốt yếu để cổ

phần hóa

NHTMNN, chỉ

sau khi

đánh giá được giá trị của NHTMNN thì mới có thể thực hiện được việc cổ phần hóa, việc đưa giá bán cổ phần cho phù hợp làm sao để người mua và người bán đều có thể chấp nhận được.

Bn là, xây dựng lộ trình phát triển theo mục tiêu chiến lược của NHTMNN được cổ phần hóa .

Trên cơ sở mục tiêu chiến lược đã được định hướng, NHTMNN

được

cổ phần hóa

phải xây dựng lộ

trình phát triển hoạt động cho ngân

hàng mình.

1.2.4. Nội dung thực hiện Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước‌

Các nội dung chính khi thực hiện cổ phần hóa các ngân hàng thương

mại nhà nước như sau:

1.2.4.1. Thành lập tổ chức Cổ phần hóa

Khi nhận được quyết định thực hiện cổ phần hóa của cơ quan có thẩm quyền, NHTMNN có trách nhiệm thành lập ra một tổ chức hay một ban chỉ đạo cổ phần hóa bao gồm các thành viên chủ chốt của ngân hàng và mời đại diện của NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, v.v… tham dự. Đồng thời cũng phải phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong Ban Chỉ đạo.

Để đảm bảo thực hiện dự án tuân thủ quy trình, quy định của pháp luật về đầu tư dự án và đấu thầu, NHTMNN phải thành lập các Tổ tư vấn

Xem tất cả 150 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí