Giá Trị Và Cơ Cấu Giá Trị Sản Phẩm Các Ngành Kinh Tế Tỉnh Nghệ An


* Điện: Hệ thống phân phối điện được quan tâm đầu tư, hầu hết các huyện trong tỉnh đã có điện lưới quốc gia đi qua, số xã có điện lưới quốc gia đạt 441/473 xã (chiếm 93,2%), số hộ dùng điện đạt gần 95%. Một số công trình lớn được đầu tư xây dựng và đã đưa vào sử dụng, các công trình chống quá tải lưới điện và đưa điện về xã được chú trọng đầu tư.

* Cấp thoát nước và vệ sinh môi trường ở nông thôn

Việc đầu tư các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn được thực hiện đều khắp cả tỉnh thông qua các chương trình đầu tư lồng ghép trên địa bàn tỉnh (Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và VSMT nông thôn, Chương trình 135 của Chính phủ, ngân sách tập trung của Nhà nước, vốn ODA, vốn của tổ chức phi Chính phủ (NGO)…) và sự tham gia của người dân., các nhà máy, trạm cấp nước nông thôn được xây dựng, với công suất đầu nguồn 4.000 m3/ngày đêm.

Việc xây dựng các công trình vệ sinh nông thôn được đa số người dân tự đầu tư, tính đến nay số hộ có công trình hợp vệ sinh đạt trên 60%. Tuy nhiên một số nơi vẫn còn tình trạng ô nhiễm do thuốc trừ sâu, ô nhiễm môi trường ở một số làng nghề, khu dân cư tập trung chưa được giải quyết, do khó khăn về nguồn vốn đầu tư.

* Giáo dục đào tạo

Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của Nghệ An được quan tâm phát triển cả về quy mô và chất lượng. Cơ sở trường lớp được quan tâm đầu tư xây dựng, trang thiết bị dạy và học được trang bị đáp ứng nhu cầu dạy và học. Chất lượng giáo dục toàn diện có tiến bộ, hàng năm có hơn 65% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở được chuyển vào trung học phổ thông.

Quy mô các cấp học, ngành học phát triển ở tất cả các vùng. Toàn tỉnh được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ theo chuẩn quốc gia từ năm 1998. Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, ngành giáo dục


đã có nhiều nỗ lực xây dựng hệ thống trường đạt chuẩn Quốc gia, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn ở cả 3 cấp học của bậc phổ thông đạt trên 98%. Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và các trung tâm học tập cộng đồng phát triển khá nhanh, đã bước đầu đáp ứng được nhu cầu học tập của xã hội. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú được quan tâm đầu tư, tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là chất lượng văn hoá của học sinh dân tộc ít người. Mức độ xã hội hoá giáo dục trong phạm vi toàn tỉnh tăng nhanh trong những năm qua.

* Y tế và chăm sóc sức khoẻ

Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, công tác dân số, gia đình và trẻ em có nhiều tiến bộ. Hệ thống các cơ sở khám chữa bệnh từ tỉnh đến huyện, xã từng bước được củng cố nâng cấp. Chất lượng khám chữa bệnh được cải thiện. Công tác phòng chống dịch bệnh được quan tâm. Đề án nâng cao y đức của thầy thuốc bước đầu thực hiện có hiệu quả. Các cơ sở y tế mới được xây dựng như: Bệnh viện đa khoa 700 giường, bệnh viện nhi, các trạm và các trung tâm y tế tuyến tỉnh, các bệnh viện và các phòng khám đa khoa tuyến huyện, các trạm xá xã, phường …. Đến nay toàn tỉnh có khoảng 468/473 số xã phường thị trấn có trạm y tế, trong đó hơn 35% đạt tiêu chuẩn ngành, 19/19 huyện thành thị có trung tâm y tế huyện, số giường bệnh/vạn dân đạt hơn 30, 46 giường.

2.1.2.3 Tình hình phát triển kinh tế của tỉnh Nghệ An.

Trong những năm qua Nghệ An đã đạt được những thành tựu đáng kể về phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Cơ cấu kinh tế mà tỉnh đã lựa chọn phần nào thể hiện tính năng động, thích ứng nhanh nhạy với sự thay đổi của thị trường trong nước và thế giới, đẩy nhanh được quá trình phát triển theo hướng CNH, HĐH, khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế so sánh, tăng nhanh được năng suất lao động, hình thành các ngành và sản phẩm chủ


lực. Trong đó đối với ngành nông- lâm nghiệp được chú trọng phát triển theo hướng nông nghiệp sinh thái, công nghệ cao gắn với công nghiệp chế biến, với phát triển đô thị và hướng vào xuất khẩu, gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hình thành các vùng hàng hoá tập trung, phát triển sản xuất nông- lâm- thuỷ sản theo hướng tập trung quy mô lớn, mô hình công nghiệp. Điều đó được thể hiện cụ thể thông qua một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp mà tỉnh đã đạt được như: tổng giá trị sản phẩm và cơ cấu giá trị sản phẩm của các ngành kinh tế tính theo giá thực tế thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.3.Giá trị và cơ cấu giá trị sản phẩm các ngành kinh tế tỉnh Nghệ An


Chỉ tiêu

ĐVT

2003

2004

2005

2006

2007

Tổng giá trị sản phẩm

Tr.đ

10.441.655

12.141.334

14.583.853

17.200.292

19.628.507

1. Nông – Lâm- T.sản







- Tổng sản phẩm

Tr.đ

4.328.917

4.636.228

5.838.877

5.691.576

6.124.094

- Cơ cấu

%

41,46

38,14

36,92

33,09

31,20

2. Công nghiệp -







Xây dựng







- Tổng sản phẩm

Tr.đ

2.464.765

3.169.580

4.190.234

5.055.165

6.987.748

- Cơ cấu

%

23,61

26,11

28,73

29,39

35,60

3. Dịch vụ







- Tổng sản phẩm

Tr.đ

3.647.973

4.335.526

5.009.733

6.453.549

6.561.664

- Cơ cấu

%

34,94

35,71

34,35

37,52

33,20

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của tỉnh Nghệ An - 7

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Nghệ An


2.2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP NGHỆ AN TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC

Nước ta đã trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cũng như ngành nông nghiệp cả nước, ngành nông nghiệp tỉnh Nghệ


An chính thức bước vào hội nhập. Thế nhưng hội nhập vẫn còn xa lạ đối với người nông dân, nhất là nông dân vùng cao. Làm thế nào để không ngừng nâng cao đời sống nông dân, để nông nghiệp của tỉnh không bị tụt hậu.

Nông nghiệp tỉnh Nghệ An có đủ điều kiện và lợi thế để phát triển. Nghệ An là một tỉnh miền Trung, nằm ở khu vực trung tâm giao lưu kinh tế- văn hoá Bắc Nam, có nhiều tuyến quốc lộ và giao thông đường thuỷ với các bến cảng, cửa sông. Diện tích đất nông nghiệp lớn, màu mỡ, nguồn lao động dồi dào.

Trước thời điểm nước ta gia nhập WTO, nông nghiệp tỉnh Nghệ An đã có những bước phát triển mạnh, bền vững. Nhiều loại sản phẩm nông nghiệp như: cam, chè, tôm, cá, rau, ngô... đã có tiếng trên thị trường trong nước và trên thế giới. Tỉnh đã quy hoạch ổn định vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp hàng hoá tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư thâm canh, tăng năng suất cây trồng và vật nuôi.

Nghệ An đến nay cơ bản đã đạt được mục tiêu an ninh, an toàn lương thực, thực phẩm. Năm 2007, tổng sản lượng lương thực cây có hạt đạt

421.247 tấn, tổng đàn trâu đạt trên 292 nghìn con, đàn bò đạt trên 445 nghìn con, lợn trên 1.182 nghìn con và hàng chục triệu con gia cầm.

Ngành nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến trong việc chuyển giao khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ cho nông dân thông qua các chương trình, dự án và sự vào cuộc thực sự của các tổ chức đoàn thể: Hội nông dân, Đoàn thể, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên … đã làm cho đa phần nông dân thực sự làm chủ đồng ruộng, đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Nông dân đã năng động, nhạy bén chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách hàng và thị trường.

Trên địa bàn toàn tỉnh đã có nhiều doanh nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ để vừa cung cấp các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, vừa chế biến tiêu thụ sản phẩm của nông nghiệp sản xuất ra. Cơ sở hạ tầng nông thôn được


xây dựng khá hoàn chỉnh. Đây là yếu tố quan trọng, là “cái gậy” cho người nông dân bước vào kinh tế thị trường trong tiến trình hội nhập. Gia nhập WTO, kinh tế nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An có cơ hội lớn là: Mở rộng thị trường và tiếp cận nhanh với khoa học công nghệ, cũng như phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại của Thế giới; Tạo cơ hội thu hút đầu tư từ các nguồn trong và ngoài nước đối với khu vực nông thôn; Đây cũng là thời cơ, cơ hội cho người nông dân tiếp cận, hoà nhập với tiến trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn; Chuyển nhanh lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ, nâng cao thu nhập cho người nông dân, xoá đói, giảm nghèo tiến tới giàu có. Hội nhập kinh tế thế giới, cánh cửa rộng mở cho nông nghiệp, nông thôn từ vùng thấp đến vùng cao một cơ hội lớn để phát triển, khai thác thế mạnh, tiềm năng và nội lực vươn lên ngang tầm với kinh tế nông nghiệp cả nước, khu vực và thế giới.

Bên cạnh những cơ hội và điều kiện thuận lợi, kinh tế nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An vẫn còn nhiều thách thức lớn. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp nông nghiệp còn yếu kém do quy mô nhỏ, sản phẩm đơn điệu, chất lượng chưa cao. Kinh nghiệm quản lý và thương mại còn yếu, chưa có thương hiệu, uy tín thấp. Nông nghiệp của tỉnh có lợi thế về diện tích, nhưng thực tế sản xuất hàng hoá với quy mô lớn và tập trung là chưa nhiều, chưa phát huy hết lợi thế của tỉnh. Mặc dù đã hình thành những vùng sản xuất hàng hoá tập trung trên cơ sở khai thác các thế mạnh của từng vùng, từng địa phương nhưng hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có.

Mặc dù chăn nuôi của tỉnh trong những năm gần đây đã có sự phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, nhưng sản phẩm chăn nuôi vẫn chưa khẳng định được vị trí trên thị trường, sản phẩm nông nghiệp qua chế biến chưa nhiều, mẫu mã chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường.


Nuôi trồng thuỷ sản là thế mạnh của tỉnh nhưng vẫn chưa phát huy hết thế mạnh và chưa khai thác tốt các tiềm năng về thuỷ sản, sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản qua chế biến chưa nhiều. Tuy nhiên, thuỷ sản của tỉnh hiện đang là một trong những mặt hàng có hướng xuất khẩu lớn, nhưng để sản phẩm của ngành thuỷ sản khẳng định được vị trí trên thị trường nội địa và tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế thì tỉnh cần có sự quan tâm đầu tư nhiều hơn nữa cho sự phát triển của ngành thuỷ sản, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc chế biến, nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của ngành.

Như vậy, tạo ra sản phẩm nông nghiệp có thương hiệu, uy tín đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới đang là một thách thức lớn cho nền nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.

2.3.THỰC TRẠNG CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ TÌNH HÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HOÁ CỦA TỈNH NGHỆ AN TRONG 5 NĂM QUA

2.3.1 Thực trạng cơ cấu kinh tế của tỉnh Nghệ An

* Cơ cấu ngành kinh tế


Biểu đồ 2.1: Cơ cấu GDP trong các ngành kinh tế của tỉnh Nghệ An

Năm 2006 Năm 2007


37,52%

33,09%

29,39%

33,2%

31,2%

35,6%


Công nghiệp – Xây dựng

Nông – Lâm – Thuỷ sản

Dịch vụ


Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An


Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Nghệ An đã có sự chuyển dịch theo hướng Công nghiệp với sự gia tăng nhanh tỷ trọng ngành Công nghiệp- Xây dựng trong tổng sản phẩm của tỉnh (từ 14,2% năm 1995 lên 29,39% năm 2006 và 35,6% năm 2007), hiện là ngành có mức đóng góp lớn nhất cho GDP của tỉnh. Các phân ngành Công nghiệp có lợi thế của tỉnh (chế biến Nông- Lâm- Thuỷ sản, khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng) được tập trung đầu tư và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong giá trị tăng thêm của ngành.

Tỷ trọng Nông- Lâm- Thuỷ sản giảm tương ứng từ 38,19% năm 2003 xuống 33,09% năm 2006 và 31,2% năm 2007 (mặc dù vẫn tăng lên về giá trị tuyệt đối), phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH của tỉnh. Tỷ trọng các phân ngành công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp hàng hoá mà tỉnh có lợi thế phát triển (công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất sản phẩm cây công nghiệp) liên tục tăng nhanh trong những năm qua.

Xét theo hai khối ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp, tỷ trọng của ngành phi nông nghiệp trong tổng giá trị sản phẩm của tỉnh tăng nhanh từ 50,9% năm 1995 lên 66,91% năm 2006 và 68,8% năm 2007. Tuy nhiên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hai khối ngành sản xuất vật chất và sản xuất sản phẩm dịch vụ lại không theo chiều hướng tiến bộ như vậy. Tỷ trọng khối ngành sản xuất sản phẩm dịch vụ tăng không đáng kể từ 36,7% năm 1995 lên 37,52% năm 2006 nhưng sau đó lại giảm còn 33,2% năm 2007. Sở dĩ tỷ trọng các ngành kinh tế của tỉnh tăng và giảm về cơ cấu theo chiều hướng khác nhau là do giá trị sản xuất của các ngành đều tăng tương ứng trong các năm qua. Trong đó đáng kể là sự gia tăng của khối ngành Công nghiệp và sản xuất nông nghiệp- thuỷ sản. Do có sự quan tâm của nhà nước và có sự đầu tư của những người sản xuất nông nghiệp trong việc đưa các giống mới năng suất cao, phù hợp với điều kiện từng vùng sản xuất và khai thác thế mạnh của


vùng nên hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp tăng khá trong thời gian qua. Các tỷ trọng tương ứng của khối ngành sản xuất sản phẩm vật chất là 63,3%, 62,9% và 64,6%.

* Cơ cấu thành phần kinh tế

Bảng 2.4. Cơ cấu GDP trong các thành phần kinh tế của tỉnh Nghệ An

Đơn vị tính:(%)


Chỉ tiêu

2003

2004

2005

2006

2007

Tổng GDP

100

100

100

100

100

Nhà nước

37,50

37,85

34,89

36,08

36,95

Tập thể

18,69

17,02

13,56

11,10

10,66

Cá thể

43,02

41,20

42,96

42,58

41,95

Tư nhân

0,77

3,93

8,59

10,24

10,44

Nguồn: Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nghệ An

Cơ cấu theo thành phần kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường với sự tăng trưởng nhanh và gia tăng dần tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực thương mại, du lịch, khách sạn- nhà hàng, giao thông vận tải. Tuy nhiên, nhìn chung kinh tế ngoài quốc doanh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, quy mô hoạt động của các loại hình kinh tế tư nhân còn nhỏ bé, manh mún, vốn và lao động ít, doanh thu thấp so với mức bình quân chung của cả nước, hiệu quả kinh doanh chưa cao. Khu vực kinh tế nhà nước giảm về số lượng nhưng phần đóng góp vào GDP của tỉnh vẫn tăng lên qua các năm, từ 33,92% năm 2000 lên hơn 36% năm 2007 và tiếp tục giữ vai trò chủ đạo thúc đẩy kinh tế toàn tỉnh phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế của khu vực kinh tế Nhà nước chưa cao, quá trình sắp xếp tổ chức lại còn chậm, số doanh nghiệp thua lỗ còn chiếm trên 35%, đa số các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Khu vực

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 20/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí