Chỉ Số Mất Rừng Tự Nhiên Của Một Số Nước Châu Á - Thái Bình Dương


trình hoang hóa đất đai xuất hiện và phát triển, thủy tai lên tới mức báo động khẩn cấp

Ở Bắc Mỹ, trước đây tài nguyên rừng tưởng chừng như vô tận, gỗ khai thác được đem bán sang tận châu Âu. Vậy mà, đến thế kỷ 13 tốc độ khai thác rừng đã đến mức báo động. Chỉ trong vòng 2 thế kỷ, nước Mỹ đã mất một diện tích rừng rộng bằng cả châu Á mất trong 2.000 năm.

Như vậy, hàng trăm triệu ha rừng ẩm nhiệt đới thường xanh và rụng lá đã bị hủy hoại hoàn toàn, đất đai bị xói mòn nghiêm trọng và thường xuyên có nhiều thiên tai hơn. Việc tàn phá khu rừng ẩm nhiệt đới rộng 463 triệu ha nằm ở vùng Amazone của Nam Mỹ thì thật sự là một đòn phản công lên sinh thái và môi trường. Bắt đầu từ thế kỷ 13,khi thực dân châu Âu đến Brazil cho đến nay thì họ đã phá hủy mất 45% diện tích khu rừng này. Viêc khai phá khu rừng Amazone để làm đường xa lộ xuyên vùng là khúc dạo đầu cho các hoạt động tiếp theo để tấn công vào các cánh rừng dọc 2 bên xa lộ này. Khu vực gần một con sông thuộc nhánh của sông Amazone, đất sau khi trồng trọt đã trở nên khô cằn và biến thành vùng sa mạc rộng lớn. Ngoài ra, các hoạt động chăn thả gia súc cũng góp phần không nhỏ vào việc đẩy mạnh tốc độ suy giảm tài nguyên rừng và đa dạng sinh học.

3.1.1 Điều kiện hình thành và phát triển rừng


3.1.1.1 Yếu tố khí hậu


Khí hậu giữ vai trò quan trọng hàng đầu quyết định đến sự phân bố các kiểu sinh thái rừng chủ yếu.

a. Chế độ nhiệt:


Như đã đề cập, Nhiệt độ là nhân tố rất quan trọng đối với sự sinh trưởng, phát triển và phân bố của rừng. Nó là yếu tố giới hạn lên sự bành trướng của rừng trên từng lãnh thổ khác nhau.

Hầu hết thực vật phát triển tốt trong khoảng nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất không dưới 200C, biên độ nhiệt theo mùa chênh lệch nhau không quá 50C. Chiều cao cây và kích thước cây giảm khi nhiệt độ thấp và biên độ nhiệt cao. Chẳng hạn ở các vùng gần xích đạo như Malaysia, Indonesia, New Guinea, Việt Nam… rừng rất phong phú và có thân cây to và cao, càng đi về phía 2 cực thì tính phong phú đó càng giảm và kích thước và chiều cao của cây giảm; thậm chí ở những nơi băng giá thì không có bóng dáng của một cây rừng nào cả.


Do đó, cần chú ý rằng: Theo quy luật địa đới thì từ xích đạo về 2 cực do nhiệt độ không khí giảm dần, nên kích thước cây, lá cây, chủng loại, cấu trúc… đều giảm theo. Tuy nhiên, theo quy luật phi địa đới thì sự giảm kích thước, chủng loại, cấu trúc… lại tùy theo độ cao; vì càng lên cao, nhiệt độ không khí càng giảm xuống.

b. Lượng mưa:


Lượng mưa có ảnh hưởng rất lớn đến số loài và sự phân vùng động- thực vật. Chẳng hạn như ở vùng Amazone do lượng mưa rất cao nên thảm thực vật ở đây chiếm tới 87% tổng diện tích tự nhiên và được gọi là “lá phổi xanh của hành tinh”.

Ở Việt Nam, do ảnh hưởng của hệ thống gió và các hướng núi nên đã tạo ra các sự trùng khớp hoặc sai lệch giữa mùa mưa và mùa nhiệt, tạo ra các vùng rừng sinh trưởng và phát triển khác nhau. Ví dụ như: rừng mưa nhiệt đới (Tropical rain forest), rừng khô nhiệt đới (Tropical dry forest). Tuy nhiên, do sự xen kẽ giữa trung tâm mưa lớn và trung tâm mưa nhỏ nên không thể lấy lượng mưa làm đơn vị đặc trưng cho các kiểu sinh thái rừng.

Ngoài ra, lượng mưa kết hợp với nhiệt độ cũng tạo ra sự đa dạng về chủng loài động - thực vật, cũng như năng suất sinh khối của khu rừng.

c. Ánh sáng mặt trời:


Ánh sáng mặt trời là một trong những yếu tố không thể thiếu được đối với sự sinh trưởng và phát triển của cây rừng, nó là một bộ phận cấu thành nên sự quang hợp của cây:


C6H12O6 +

Diệp lục Ánh sáng

6CO2 + 6H2O C6H12O6 + 6O2


Ánh sáng mặt trời ở vùng nhiệt đới rất phong phú nên đã tạo ra loại rừng nhiều tầng và có khả năng tạo ra sinh khối lớn.

3.1.1.2 Địa hình


Đứng về mặt địa - thực vật thì một số kiểu địa hình chính có quan hệ mật thiết tới tính đa dạng và phong phú của rừng:

o Nhóm kiểu địa hình đồi núi: chiếm diện tích đáng kể và có vai trò khá quyết định lên sự phân bố tài nguyên rừng và hệ động - thực vật.


o Nhóm kiểu địa hình cao - sơn nguyên: nhóm này có đặc trưng là phân bố thảm phủ ở mức trung bình.


o Nhóm kiểu địa hình núi đá vôi: nhóm này có một đặc trưng là nghèo nàn về động - thực vật.


o Nhóm kiểu địa hình trũng giữa đồi núi: nhóm này thường xuất hiện ở giữa các dãy núi và có các dạng khác nhau như: lòng chảo, bồn địa, máng trũng,

… Tuy vậy, đây là vùng nhận được lượng mưa ít nhất. Do đó, thực vật ở đây cũng rất nghèo nàn.

o Nhóm kiểu địa hình đồng bằng: loại này có cao độ thấp nhất. Do điều kiện khí hậu thuận lợi, đất đai màu mỡ, và các chế độ thủy văn rất ưu đãi đối với sự sinh trưởng và phát triển của rừng. Do vậy, nhóm kiểu địa hình này rất ưu đãi cho các hệ sinh thái rừng.

3.1.1.3 Đất đai, thổ nhưỡng


Trên bảng phân loại đất thế giới, ta thấy có rất nhiều loại đất; tùy thuộc vào từng miền khí hậu khác nhau sẽ có những loại đất khác nhau.

a. Miền ôn đới có các loại đất chủ yếu sau:


- Đất potzon: loại đất này là một trong những loại đất xấu nhất trong các loại đất. Thực vật sống trên vùng đất này chủ yếu là các cây lá nhọn (Thông, Tùng, Bạch dương, cây bụi, cây thân cỏ…). Nhìn chung, đất potzon không phù hợp cho sự phát triển của thực vật.

- Đất đen ôn đới: Đây là loại đất có độ màu mỡ cao (có thể được xếp vào bậc nhất trên thế giới). Ở các vùng đất đen ôn đới, ta có thể thấy các dạng rừng cây lá to, nhiều nhất là rừng Sồi và rừng Bạch dương.

- Đất mặn ôn đới: có 3 dạng đất mặn ôn đới đó là đất Salonsat, đất Solonet và đất Solot. Các loại đất thuộc đất mặn ôn đới rất nghèo dinh dưỡng, không phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây rừng.

b. Đất miền cận nhiệt đới ẩm:


Chủ yếu là đất đỏ và đất vàng, có độ phì trung bình, nghèo về các nguyên tố dinh dưỡng và phần lớn chúng phân bố dọc theo các sườn núi. Do đó, khi xét trên bình diện quản lý rừng thế giới, để bảo vệ loại đất này không bị xuống cấp nên tránh khai hoang rừng dọc sườn núi và tìm cách gia tăng độ che phủ (Coverland) ở những vùng sườn này.


c. Đất miền nhiệt đới:


Có 3 dạng đất miền nhiệt đới đó là:


- Đất đỏ thẫm


- Đất nâu đỏ


- Đất đen nhiệt đới.


Ở đây, lượng mưa hàng năm từ trung bình đến cao cho nên rất thích hợp cho sự phát triển của thực vật.

Tóm lại, đất đai không những có vai trò quan trọng trong việc tạo ra lập địa lâm nghiệp, con người, thực vật, động vật và vi sinh vật mà còn có vai trò vô cùng to lớn trong việc duy trì tài nguyên rừng và duy trì sự đa dạng sinh học.

Ở Việt Nam, do có sự phân dị về các điều kiện hình thành và phát triển đất, cùng với mục đích phân chia địa giới lâm nghiệp, nên theo bản đồ thổ nhưỡng Việt Nam của Bộ Nông nghiệp cũ thì nước ta có đến 12 nhóm đất chính, trong đó, nhóm đất đỏ vàng (Feralite) chiếm đến 50% tổng diện tích; 11 nhóm còn lại thì có 2 nhóm đất mùn vàng đỏ và 3 nhóm đất phù sa, mỗi nhóm chiếm khoảng 9%, phần còn lại là các loại đất khác.

Ngoài ra, khi nghiên cứu về rừng, thì hai yếu tố không thể bỏ qua đó là khu hệ động thực vật và yếu tố con người. Riêng yếu tố con người thì có rất nhiều vấn đề còn phải tranh luận. Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc đến nhằm chứng thực cho vấn đề có sự can thiệp có ý thức và vô ý thức của con người vào tài nguyên rừng, từ đó, các yếu tố sinh thái và sự phân bố của rừng nhất định phải bị thay đổi.

3.1.2 Sự phân bố của rừng


3.1.2.1 Trên thế giới


Rừng phân bố không đều trên các châu lục về diện tích cũng như về chủng loại. Tổng cộng có khoảng 27% diện tích bề mặt lục địa được che phủ bởi rừng thì diện tích phân bố tập trung ở miền ôn đới cũng như ở miền Khí hậu lạnh là 1,2 tỷ ha (chiếm 33% tổng diện tích rừng), còn lại 2,557 tỷ ha (67%) rừng rậm phân bố ở miền xích đạo và miền nhiệt đới.

Tùy theo từng khu vực, từng loại khí hậu, địa hình, đất đai… khác nhau mà có các loại rừng khác nhau:


- Vùng Bắc cực: do khí hậu lạnh, các cây gỗ lớn không phát triển được mà chủ yếu là hệ sinh vật đài nguyên (cỏ bông, Rêu, Địa y…); được gọi là “đại quần xã” (Tundra Biome).

- Vùng ôn đới: hình thành các loại cây lá kim (chủ yếu ở Bắc Mỹ, Bắc Âu, và Bắc Á) và cây rụng lá vào mùa Đông (Đông Bắc Mỹ, châu Âu, cuối Nam Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc…).

- Vùng khí hậu khô nóng: thường thấy có sự phân bố của các cây bụi nghèo kiểu savane (chủ yếu ở châu Phi).

- Vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới: chủ yếu là các loại rừng thường xanh, rừng mưa nhiệt đới (lưu vực sông Amazone, Ấn Độ, Đông Nam Á…).

Đối với các nước đang phát triển, do nhu cầu để phát triển kinh tế nên việc khai thác tài nguyên (chủ yếu là tài nguyên rừng) xảy ra rất mạnh mẽ, làm cho mức độ suy thoái môi trường rất lớn. Hiện nay, mức độ tàn phá rừng mạnh nhất rơi vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Theo số liệu của FAO, 1991 thì hàng năm Thế giới đã phá hủy tới 11 triệu ha rừng so với thập niên 80 là 11,3 triệu ha. Trong đó, khu vực châu Á- Thái Bình Dương với tổng diện tích rừng chỉ có 300 triệu ha nhưng lại có mức độ tàn phá lên tới 3,7 triệu ha/năm.

Bảng 3.1: Chỉ số mất rừng tự nhiên của một số nước châu Á - Thái Bình Dương


Quốc gia

Rừng hiện tại (ha)

Rừng bị mất (ha/năm)

Dự báo T. gian sẽ hết rừng (năm)

Indonesia

85.000.000

1.500.000

57

Philipine

10.000.000

100.000

14

Malaysia

5.307.000

525.000

12

Thailand

29.000.000

1.400.000

21

Sri lanca

3.610.000

190.000

13

Ấn Độ

65.698.000



Miến Điện

10.995.000

141.700

78

Nepan

1.728.700

43.200

40

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 415 trang tài liệu này.

Du lịch sinh thái - 8


Apganistan

1.983.000

39.700

50

Tổng cộng

214.323.200

4.540.200



(Nguồn: UN and ESCAP Review and Appraisal of Environment situation in ESCAP region, 1982)

Lượng rừng mất mát như trên có liên quan mật thiết với nhu cầu về gỗ trên toàn thế giới. Hiện nay, trung bình mỗi năm rừng già trên toàn thế giới bị phá hủy khoảng 1-2%; trong lúc đó nhu cầu về củi đốt tăng lên tới 75%, riêng châu Phi thì hơn 90%. Như vậy, rừng thế giới đang bị tàn phá rất khốc liệt.

Bảng 3.2: Chỉ số mất rừng của Thế giới


Vùng

D. tích rừng nguyên thủy

(Tr. ha)

DT rừng bị mất/năm (Tr.

ha)

Đông Á

326,0

7,0

Tây Á

30,8

1,8

Đông Phi

86,8

0,8

Tây Phi

98,8

0,88

Nam Mỹ

0,52 (tỷ)

8,8

Trung Mỹ

59,2

1,0

(Nguồn: JM. Barrett and Oth, 1986)


3.1.2.2 Rừng Việt Nam


Ở Việt Nam, do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, hơn nữa diện tích nước ta trải dài trên nhiều vĩ độ. Do đó, thực vật rất đa dạng và phong phú: ở miền Bắc, có mùa Đông lạnh nên có rừng cây lá cứng thường xanh họ Giẻ, họ Hẹ; ở miền Nam, điển hình là rừng nửa thường xanh, ưu thế vẫn là họ Sao Dầu và họ Đậu, phần lớn rụng lá và đặc biệt có rừng rụng lá toàn cây như Bằng Lăng; ở vài khu vực có mực nước ngầm rất khác nhau trong mùa mưa và mùa khô nên điển hình là rừng kín nửa thường xanh, nhưng cũng có cả 3 kiểu trong một hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới vùng thấp như trường hợp khu rừng cấm Nam Cát Tiên. Ở những vùng khô hơn thì hệ sinh thái rừng khô nhiệt đới chiếm ưu thế, có các họ


Sao dầu mọc xen kẽ với họ Đậu; rừng trơ cành trong mùa khô gọi là “rừng khộp”

và cây gỗ mọc thưa dần cho đến khi thành rừng thưa và trảng cỏ lẫn cây to.


Ở trên núi cao thì có thông 2 lá, 3 lá tập trung khoảng trên 200.000 ha ở Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; ở giữa vùng giao điểm là rừng hỗn hợp giữa Thông 2 lá và họ Sao dầu; ở ven biển Đông Quảng Ninh và ven đồng bằng sông Cửu Long xuất hiện loại rừng đặc biệt đó là “rừng ngập mặn” với một số loài chiếm ưu thế như Mắm, Đước, Bần, Sú, Vẹt, Chà là, Ôrô… Trên đất chua phèn thì có rừng Tràm ngập úng trong mùa lũ; trên đất sét và đất than bùn có rừng lầy hỗn hợp, rừng tràm than bùn phèn tiềm tàng U Minh thượng và U Minh hạ; ở vùng Phan Rang- Phan Thiết do điều kiện khô hạn, lượng mưa không quá 800 mm, lại tập trung trong vòng 2-3 tháng, nên đã hình thành rừng lá với trảng cỏ thấp và truông bụi gai, đó là một kiểu bán sa mạc; ở Bình Dương, Bình Phước và Tây Ninh có hàng trăm ngàn ha rừng Tre lồ ô, Tre cói, nên được gọi là “Biển Tre”.

a. Về khí hậu


Việt Nam nằm ở vị trí khá đặc biệt trong khu vực châu Á gió mùa, ở phía Đông Nam rìa cuối của một lục địa lớn nhất thế giới, trải dài theo phương kinh tuyến, có 2 mặt tiếp giáp với đại dương. Những điều kiện trên đã làm cho nước ta có khí hậu rất độc đáo, hầu như không so sánh được với bất kỳ một nơi nào trên thế giới.

Chế độ nhiệt: với chế độ nhiệt thất thường, nhất là ở miền Bắc của Việt Nam. Gió mùa Đông Bắc không những đem lại cho miền Bắc một mùa Đông lạnh (nhiệt độ bình quân tháng là 200C) mà còn đẩy lùi tháng nóng nhất xuống cuối mùa hè (tháng 7 hoặc tháng 8) hạ thấp đai nhiệt xuống dưới mức bình thường 300-400 m. Ngoài ra, những điều kiện khác như: độ cao so với mực nước biển, khoảng cách so với bờ biển, dạng địa hình, đặc điểm bề mặt… với những kết quả trên đã tạo ra trên toàn lãnh thổ Việt Nam có 2 miền nhiệt khác nhau với các đặc trưng cụ thể như sau:

Bảng 3.3.: Chệnh lệch nhiệt độ giữa 2 miền Nam – Bắc



Khu vực


Nhiệt độ trung bình năm (0C)

Tháng lạnh

nhất trung bình (0C)


Biên độ nhiệt năm (0C)

Phía Bắc vĩ tuyến 100B

20-24

15-13

9

Phía Nam vĩ tuyến 100B

25

20

9


- Hoàn lưu khí quyển: có thể nói, hoàn lưu gió mùa lấn át và có khả năng thay thế cho hoàn lưu tín phong. Trong một số nơi thì hoàn lưu gió mùa vẫn có sự tham gia của hoàn lưu tín phong đã tạo ra một chế độ gió của Việt Nam vừa tuân thủ quy luật hoàn lưu khí quyển của trái đất, vừa xóa đi những tính chất có ý nghĩa địa đới.

- Chế độ mưa: Chế độ mưa ở Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào các hệ thống gió và hướng núi: gió Tây Nam gây mưa lớn ở Nam bộ và Tây Nguyên vào các tháng 5,6,7,8,9,10; gió mùa Đông Nam gây mưa lớn ở Bắc bộ và Thanh Hóa cũng ở các tháng như trên; còn gió mùa Đông Bắc kết hợp với hướng Tây Bắc- Đông Nam của dãy Trường Sơn gây mưa lớn ở Trung bộ vào các tháng 9,10 11,12,và tháng 1.Sự trùng khớp hoặc sai lệch về chế độ nhiệt và hướng gió như trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự tăng trưởng và phát triển của rừng Việt Nam.

Ngoài ra, sự dị biệt về lượng mưa, chế độ nhiệt và độ cao giữa các vùng cũng có ảnh hưởng đáng kể không những lên bề mặt phân bố của thảm thực vật mà còn lên sự sinh trưởng, phát triển của rừng và cả sự đa dạng sinh học.

b. Địa hình


Việt Nam có các nhóm kiểu địa hình có quan hệ mật thiết tới sự phân bố của rừng:

Những nơi có địa hình cao, đón gió, thuận lợi thì mưa nhiều (Sapa: 2.833 mm/năm, Huế: 2.867 mm/năm, Bảo Lộc: 2.542mm/năm…).

Những nơi khuất gió, chân núi thì mưa ít (Yên Châu: 1.277 mm/năm, Sông Mã: 1.185 mm/năm, Cheo Reo: 1.248 mm/năm…).

Với những đặc trưng này đã làm cho rừng Việt Nam phân bố một cách rãi rác ở một số nơi, không tập trung ở bất kỳ một địa bàn nào với quy mô lớn được.

c. Thổ nhưỡng


Nước ta là một nước nông nghiệp nhiệt đới, chịu tác động tổng hợp từ các yếu tố địa đới (theo đai ngang và theo vĩ độ) và phi địa đới (theo ven biển và theo đai cao) tạo nên sự phân hóa về đất và phân loại sử dụng đất. Tùy theo từng loại đất mà sẽ có sự phân bố thảm thực vật khác nhau trên toàn lãnh thổ.

Trong điều kiện bình thường, tại những vùng thấp và những vùng có cao độ trung bình, dưới ảnh hưởng của khí hậu nóng, có mùa khô, mùa mưa xen kẽ nhau thì quá trình địa đới làm phát sinh thổ nhưỡng là quá trình laterite và loại đất điển

Xem tất cả 415 trang.

Ngày đăng: 31/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí