Tiểu Thuyết Luận Đề Của Nhất Linh Và Khái Hưng Tiểu Thuyết Luận Đề Của Nhất Linh


hội phong kiến chuyển sang xã hội thực dân nửa phong kiến. Với sự giao lưu và tiếp nhận những tinh hoa của nền văn hóa phương Tây, tiểu thuyết Việt Nam mới thực sự trở thành tiểu thuyết hiện đại.

Tiểu thuyết luận đề

Tiểu thuyết luận đề được hiểu là tiểu thuyết mà cốt truyện và số phận nhân vật được dùng để chứng minh cho một vấn đề triết học, đạo đức, xã hội (tức luận đề) có trước.

Cần phải phân biệt tiểu thuyết luận đề với luận đề của tiểu thuyết. Luận đề của tiểu thuyết chính là chủ đề, là vấn đề: “Triết lý xã hội, đạo đức và các loại hình tư tưởng khác được đặt ra trong tác phẩm” [1, 46]. Chủ đề được hình thành từ hiện thực cuộc sống thông qua sự khái quát hóa của nhà văn, chủ đề toát ra từ ý nghĩa khách quan của tác phẩm.

Với tiểu thuyết luận đề, luận đề là cái có trước. Cốt truyện và nhân vật được tác giả sử dụng nhằm chứng minh cho luận đề. Nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ cho rằng: “Tiểu thuyết luận đề là tiếng để dịch thành ngữ Pháp Roman à thèse. Luận đề đây là chỉ cái chủ trương, cái quan niệm có hệ thống của một tác giả về một vấn đề trọng đại của tư tưởng và liên quan đến xã hội nhân sinh. Nhà văn viết ra một câu chuyện với chủ ý trình bày những nhân vật, dẫn dắt các tình tiết để đi đến một kết cục, tất cả nhằm bênh vực cái quan niệm riêng của mình… Người ta nhận ra tiểu thuyết luận đề ở chỗ, tác giả đã rõ rệt chủ ý bênh vực một quan niệm, để chống lại một quan niệm khác và rõ rệt uốn nắn câu chuyện, khuôn đúc nhân vật, phục vụ cho chủ ý của mình” [53, 244].

Đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết luận đề là tính định hướng trong khai thác nhân vật và cốt truyện. đó, người đọc dễ dàng nhận ra sự can thiệp của tác giả. Nhà văn luôn luôn xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập, có mâu thuẫn, xung đột gay gắt với nhau, trong đó nhân vật chính diện luôn là “phát ngôn viên” cho tư tưởng của chính tác giả. Nhân vật cũng thường được khai thác ở những bình


diện có lợi cho luận đề. Kết thúc của Tiểu thuyết luận đề thường là kết thúc có hậu. Vì thế tiểu thuyết luận đề thường mang màu sắc đạo đức và duy lý.

Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

Đầu thế kỉ XX, tầng lớp trí thức Tây học ở nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ. Họ tiếp nhận và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phương Tây hiện đại. Vì thế ý thức cá nhân trong họ trỗi dậy mạnh mẽ, trong khi đó chế độ gia đình phong kiến vẫn đầy rẫy những tập tục phong kiến lạc hậu. Cuộc đối đầu giữa hai phe Cũ - Mới ngày càng căng thẳng và quyết liệt, khó có thể dung hòa. Trước thực trạng trên của xã hội, Tự lực văn đoàn đã nhanh chóng nắm bắt tình hình và cho ra mắt độc giả nhiều tác phẩm có nội dung chống lễ giáo phong kiến, đòi giải phóng con người cá nhân. Những tác phẩm ấy ngay từ khi mới ra đời đã nhận được sự ủng hộ và lòng yêu mến của đại đa số những người trẻ tuổi đang khát khao được sống cuộc đời tự do, được hưởng hạnh phúc cá nhân.

Mở đầu cho cuộc chiến chống lễ giáo phong kiến, giải phóng con người cá nhân là cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng. Mặc dù luận đề chống lễ giáo phong kiến chưa được đặt ra trực tiếp ở tiểu thuyết này, nhưng thông qua những hành động, suy nghĩ của các nhân vật, nhà văn đã gián tiếp phê phán lễ giáo phong kiến với những tập tục lạc hậu đã kìm hãm quyền được yêu, được tự do lựa chọn hạnh phúc lứa đôi của tuổi trẻ. Sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả là minh chứng cho luận đề chống lễ giáo phong kiến, giải phóng con người cá nhân. Tự lực văn đoàn đã nhận được sự ủng hộ tích cực từ phía bạn đọc nói chung và của tầng lớp thanh niên nói riêng. Đây chính là nguồn động lực thúc đẩy, cổ vũ nhóm tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết có luận đề chống lễ giáo phong kiến.

Đóng góp của Tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng - 4

Tiếp sau Hồn bướm mơ tiên, các tiểu thuyết: Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân, Lạnh lùng, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự đã trực tiếp tấn công vào thành


trì bảo thủ của lễ giáo phong kiến. Các tiểu thuyết này đã phơi bày mặt trái của nền luân lý bảo thủ - cái mà phái cũ gọi đó là truyền thống, là gia phong nền nếp. Đó là chế độ đa thê với quan niệm “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt; là mâu thuẫn muôn đời giữa mẹ chồng với nàng dâu với quan niệm nghiệt ngã “mất tiền mua mâm bà đâm cho thủng” trong Đoạn tuyệt; là chế độ hôn nhân gả bán và quan niệm môn đăng hộ đối trong Đoạn tuyệt Nửa chừng xuân; là nghĩa vụ tam tòng và bổn phận thủ tiết của người đàn bà theo quan niệm “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” đã kìm hãm hạnh phúc của biết bao người phụ nữ trẻ bất hạnh trong Lạnh lùng.

Trong các tiểu thuyết luận đề, Tự lực văn đoàn đã dụng công xây dựng nên những nhân vật lý tưởng nhằm chứng minh cho luận đề của mình, cho tôn chỉ, mục đích hoạt động văn chương của nhóm. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn nhận xét Tự lực văn đoàn là tập hợp những cây bút “thấm nhuần văn hóa Pháp”. Các sáng tác của văn đoàn này chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây mới mẻ, họ là lớp nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới tư duy nghệ thuật thời bấy giờ, họ ca ngợi và cổ vũ cho cái mới. Nhanh chóng nắm bắt và phản ánh được những xung đột giữa mới - cũ trong xã hội, họ đã dùng văn chương như một thứ vũ khí đấu tranh chống lại các nền nếp, ý thức, tư tưởng đã lỗi thời. Vì vậy tiểu thuyết luận đề đã nhanh chóng trở thành một hình thức văn chương có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu đấu tranh của Tự lực văn đoàn. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn thường đi theo hai hướng:

Thứ nhất là đấu tranh chống lễ giáo phong kiến và giải phóng con người cá nhân. Thể hiện những khát vọng về cuộc sống tự do, được hưởng hạnh phúc cá nhân, được quyền tự do yêu đương. Trong các tác phẩm của Tự lực văn đoàn, chúng ta nhận ra cái tôi cá nhân mạnh mẽ, luôn khát khao được sống, được yêu, luôn muốn bứt phá khỏi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến


với những hủ tục, luật lệ quá khắt khe kìm hãm hạnh phúc cá nhân. Cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai phe cũ – mới đã diễn ra. Một bên là những thanh niên trí thức đại diện cho những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Một bên là những nhân vật đại diện cho nền luân lý truyền thống với những quan niệm đã quá cũ kĩ, lạc hậu luôn khăng khăng giữ lấy quan điểm của mình. Thông qua các tác phẩm, tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn phê phán mạnh mẽ lễ giáo phong kiến đã chà đạp lên quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc cá nhân chính đáng của con người.

Thứ hai là cải cách xã hội: các tiểu thuyết luận đề mang nội dung cải cách xã hội của Tự lực văn đoàn mang đậm màu sắc cải lương tư sản. Những tiểu thuyết luận đề theo hướng này gồm: Gia đình của Khái Hưng, Con đường sáng của Hoàng Đạo. Trong Gia đình, Khái Hưng đã ca ngợi những địa chủ tân học có tấm lòng nhân ái, quan tâm tới cuộc sống khổ cực của người nông dân. Họ làm nhà Ánh sáng, đào giếng, mở trường học nhằm khai sáng cuộc sống của người nông dân. tiểu thuyết Con đường sáng, Hoàng Đạo lại vẽ lên bức tranh đẹp đẽ về một cuộc sống mới của người nông dân: có sân vận động, có thư viện… Địa chủ và nông dân cùng nhau liên hoan vui vẻ mỗi khi được mùa. Tất cả chỉ là một hiện thực giả tạo, những viễn cảnh không bao giờ có thật.

Hiện thực được vẽ lên trong tác phẩm qua lăng kính của các nhà văn là một hiện thực không có thật, mà nó được vẽ lên bởi trí tưởng tượng quá ngây thơ của các nhà văn. Vì thế mà tiểu thuyết luận đề đi theo hướng này không thu được thành công. Bởi cốt truyện và nhân vật được xây dựng một cách quá khiên cưỡng và gượng ép nhằm chứng minh cho luận đề mà nhà văn đã đưa ra.

1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái Hưng Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh


Tiểu thuyết luận đề thường không mở rộng diện phản ánh mà thường khái quát từ chiều cao với rất ít sự kiện và nhân vật. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đánh giá: lối tiểu thuyết luận đề là lối rất mới ở nước ta. Mà trong thể loại này thì tiểu thuyết của Nhất Linh là “những tiểu thuyết chiếm địa vị cao hơn cả”.

Bản thân nhà văn Nhất Linh cũng nhận xét: “Viết tiểu thuyết luận đề nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán dương tuyên truyền một cái gì đó mà tác giả cho là đẹp, để đả đảo một cái gì mà tác giả cho là xấu xa” [65, 147].

Các tác phẩm của Nhất Linh bao gồm: tiểu thuyết Nho phong (1926), Người quay tơ (1927), Đời mưa gió (viết chung với Khái Hưng – 1934), Gánh hàng hoa (viết chung với Khái Hưng – 1934), Đoạn tuyệt (1935), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937), Bướm trắng (1939). Truyện ngắn: Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng - 1933), Tối tăm (1936)…

Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh thể hiện được những tư tưởng tiến bộ của lớp thanh niên trẻ có học thức, được tiếp xúc với văn minh phương Tây hiện đại. Nhà văn đã xây dựng nên những nhân vật lý tưởng đại diện cho những tư tưởng mới. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh luôn có hai tuyến nhân vật đối nghịch nhau gay gắt. Một bên đại diện cho những tư tưởng tiến bộ. Đó thường là những trí thức Tây học được học hành, được tiếp xúc với nền văn minh phương Tây hiện đại. Họ có ý thức sâu sắc về sự biến chuyển của thời đại, họ cảm nhận cuộc sống thật ngột ngạt, tù túng trong các ràng buộc của chế độ đại gia đình và hệ ý thức phong kiến cổ hủ. Vì thế họ khao khát có được cuộc sống tự do. Những người phụ nữ trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh luôn là những người phụ nữ được học hành, có sự hiểu biết. Họ khát khao một cuộc sống bình đẳng. Loan trong Đoạn tuyệt luôn có ước muốn “Mình phải tạo ra một hoàn cảnh mới hợp với quan niệm mới của mình”,


Loan luôn khẳng định rằng “Em có quyền tự lập thân em”. Trong suy nghĩ của Loan luôn có những ý tưởng đi ngược lại xã hội phong kiến.

Trong tác phẩm của ông thường xuất hiện mâu thuẫn giữa mẹ chồng với nàng dâu. Nhưng vượt lên trên mối xung đột cá nhân ấy là xung đột mang tính xã hội rộng lớn. Đó là sự xung đột khốc liệt giữa hai phe cũ – mới, giữa hai luồng tư tưởng trái ngược nhau của hai thế hệ. Sự xung đột giữa hai lối sống, hai quan niệm sống. Cha mẹ Dũng trong Đôi bạn muốn chàng trở thành địa chủ, nhưng chàng không thể chấp nhận cuộc sống ấy. Với Dũng một cuộc sống nhàn nhã, hưởng thụ dựa trên sự bóc lột người khác là điều chàng không thể làm được. Với Đoạn tuyệt đó là cuộc đấu tranh cho quyền sống, cho quyền tự do yêu đương của con người, chống lại gia đình phong kiến với những hủ tục lạc hậu vùi dập hạnh phúc cá nhân. Vì thế ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm đã được đánh giá là “Một vòng hoa tráng lệ đặt lên đầu chủ nghĩa cá nhân”.

Tiếp sau đó là sự xuất hiện của Lạnh lùng, tác phẩm là sự tiếp nối mạch cảm hứng khẳng định quyền được sống, được yêu của người phụ nữ. Nhất Linh đã miêu tả một cuộc giằng xé dữ dội và quyết liệt trong tâm hồn của Nhung - một góa phụ trẻ luôn sống trong sự phân vân, giằng xé giữa việc giữ lấy danh tiếng hay lựa chọn tình yêu đích thực. Không chỉ có Nhung mà cả đại gia đình phong kiến đều giả dối để bảo vệ “tiếng thơm” của mình. Ngày giỗ chồng dù không thương nhớ gì nhiều nhưng nàng cũng tỏ vẻ “Cố ý lau qua loa để mọi người biết nàng mới khóc”. Ngay cả bà Án - mẹ chồng nàng cũng khóc nhưng bà “khóc chẳng qua vì cái khóc đối với bà rất hay lây chứ không vì thương con dâu hay vì nhằm ngày dỗ bà nhớ đến con”.

Khi viết Lạnh lùng, Nhất Linh đã nhằm thẳng vào đạo Khổng mà lên án. Vì cái bảng “Tiết hạnh khả phong”, Nhung không chỉ sống giả dối với mọi người mà nàng còn giả dối với chính lòng mình. Có lẽ đây là tấn bi kịch lớn


nhất của cuộc đời nàng. Hạnh phúc ở ngay trong tầm tay mà nàng không đủ can đảm “hái” lấy trái ngọt của hạnh phúc. Bởi những quy tắc đạo đức theo tư tưởng Khổng giáo đã trói buộc, đã bóp chết bao ước mơ và quyền được hưởng hạnh phúc chính đáng của con người nói chung và người phụ nữ nói riêng. Một người phụ nữ còn trẻ không yêu chồng mà vẫn phải hi sinh tuổi thanh xuân, hi sinh cả tình yêu hạnh phúc của mình để ở vậy thờ chồng, để giữ tiếng thơm cho gia đình. Đây là một điều vô lý, trái với lẽ tự nhiên. Nhung chính là một nạn nhân đáng thương của những luân lý khắt khe của xã hội phong kiến.

Qua tác phẩm, nhà văn đã lên tiếng tố cáo mạnh mẽ chế độ đại gia đình phong kiến với quyền uy lạnh lùng của cộng đồng đã ràng buộc, thúc ép mọi cá nhân phải sống theo khuôn phép đã quy định. Một xã hội mà không ai đếm xỉa và ý thức về cái được gọi là hạnh phúc riêng tư của người phụ nữ. Hạnh phúc cá nhân là thứ mà người ta không quen nhắc tới nên nó bị coi rẻ, con người phải sống cam chịu, héo mòn dần theo năm tháng cho tới khi mà “Cùng với hai hàm răng long, mái tóc bạc, cái phần thưởng quý hóa ấy sẽ đến để kết liễu đời nàng, đời một người đàn bà góa trẻ, ở vậy thờ chồng, giữ được vẹn toàn tiếng thơm”. [42, 268]. So với Khái Hưng, tính luận đề trong tiểu thuyết của Nhất Linh rõ ràng hơn, và sự đấu tranh của các nhân vật trong tác phẩm của ông cũng mạnh mẽ quyết liệt hơn: “Nhất Linh cho rằng cái khí giới ôn hòa của Khái Hưng chưa đủ hiệu lực để đánh đổ kẻ thù còn đang mạnh lắm. Ông chủ trương phải tuyên chiến đánh thẳng vào địch, hạ cho nó nằm xuống thì mới hòng cứu vãn được” [34, 723].

Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng

Khái Hưng sáng tác ở nhiều thể loại: kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết. Kịch gồm: Tục lụy (1937), Đồng bệnh (1942). Truyện ngắn gồm: Dọc đường gió bụi (1936), Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1939), Đội mũ lệch (1941). Tiểu thuyết gồm: Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Gia


đình (1935), Trống mái (1936), Thoát ly (1936), Thừa tự (1940), Hạnh

(1940), Những ngày vui (1941), Đẹp (1941);

Chống lễ giáo phong kiến, giải phóng con người cá nhân là cảm hứng chủ đạo và cũng là cảm hứng dồi dào nhất trong suốt chặng đường sáng tạo nghệ thuật của Khái Hưng.

Với hai cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên Nửa chừng xuân, Khái Hưng đã trở thành người mở đầu cho những tiểu thuyết chống lễ giáo phong kiến của Tự lực văn đoàn. Nếu như trong Hồn bướm mơ tiên mới chỉ là sự hé mở về một cuộc chiến chống lại tư tưởng bảo thủ của chế độ đại gia đình phong kiến thì đến Nửa chừng xuân, ngòi bút của nhà văn đã trực diện tấn công vào những quy tắc nghiệt ngã mà chế độ đại gia đình đã kìm hãm cuộc sống hạnh phúc cá nhân của con người. Qua tác phẩm, Khái Hưng đã khẳng định quyền tự do kết hôn của thế hệ thanh niên tiến bộ có nhận thức mới về quyền sống cá nhân, về hạnh phúc lứa đôi.

các tiểu thuyết tiếp theo: Gia đình, Thoát ly, Thừa tự, Khái Hưng tiếp tục chĩa mũi nhọn vào thành trì của lễ giáo phong kiến. Mỗi tác phẩm, nhà văn đi sâu khai thác một khía cạnh, nhưng tất cả đều tập trung thể hiện tinh thần phản phong quyết liệt, mạnh mẽ. Trong tiểu thuyết Gia đình, tác giả đi vào mô tả sự rạn nứt của đại gia đình phong kiến do tác động của trào lưu xã hội tiến bộ. Thoát ly, nhà văn đã mô tả rất chân thật và sinh động sự vô nhân đạo của chế độ đa thê, cảnh mẹ ghẻ áp bức, hành hạ con chồng. Thừa tự lại dựng lên một bức tranh với những mảng màu đen tối về cuộc sống gia đình quyền thế toàn những kẻ hám lợi, ghen ghét thù oán lẫn nhau. Vẫn dựa trên mạch cảm hứng phê phán chế độ đa thê, nhưng ngòi bút của Khái Hưng tập trung vào mối quan hệ giữa dì ghẻ – con chồng xoay quanh vấn đề thừa tự. Miếng mồi “thừa tự” được trưng ra gây nên mối bất hòa, sự thù hận giữa những người ruột thịt.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/09/2023